BÁC ÁI TRONG TƯ TƯỞNG


Lm. Gioakim Huỳnh Công Tân
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở các môn đệ: “Các con hãy
nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời”. Trong đời sống
Kitô giáo, chúng ta không thể nào đạt đến đỉnh trọn lành nếu
chúng ta không lấy đức mến Chúa, yêu người làm căn nguyên
cho mọi tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta. Vì chỉ có
giới luật yêu thương cao trọng nhất và vĩnh tồn trong ngày sau
hết.
Quả thực, đức mến sẽ tồn tại vì lẽ chính Thiên Chúa là

Tình Yêu, ai ở trong Tình Yêu thì kẻ ấy ở trong Thiên Chúa và
Thiên Chúa sẽ ở lại trong kẻ ấy (1Jn.4:16). Đức ái là cốt tủy và
là sức sống của người Kitô hữu muốn tiến trên con đường hoàn
thiện. Sống đức ái là họa lại hình ảnh của một Thiên Chúa yêu
thương trong tâm tư, trong lời nói và trong cách cư xử hằng
ngày của ta đối với tha nhân.
Chúng ta muốn sống đời Kitô hữu cho đúng nghĩa thì tư
tưởng, hành động của chúng ta phải là tư tưởng của Đức Kitô.
Một khi chúng ta để đức ái chiếm vai trò cốt yếu trong tư tưởng,
thì đức ái cũng sẽ được trào ra bên ngoài trong lời nói và trong
hành động. Tư tưởng hướng dẫn hành động. Các quan năng suy
xét, cần phải đặt trên nền tảng của đức ái khi phán đoán một
điều gì. Vắng bóng đức ái, thì đời sống Kitô hữu sẽ chẳng đạt
đến sự hoàn thiện. Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
833
Nói đến bác ái là nói đến yêu thương. Yêu thương là
hành vi của trái tim, nên khởi sự trong tâm tình. Chưa có tâm
tình yêu thương là chưa yêu thương.
1. Hãy mặc lấy tâm tình của Đức Kitô
Vì vậy, trước hết hãy mặc lấy tâm tình như Đức Kitô.
Trong Tin Mừng Luca, CGS phán: "Các con hãy có lòng nhân
từ, như Cha các con là Đấng nhân từ" (Lc. 6:36). Lòng nhân từ
của Thiên Chúa Cha ở đây đã được thể hiện nơi Đức Kitô khi
Ngài không lên án người phụ nữ đã bị bắt gặp quả tang phạm tội
ngoại tình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném
trước đi" (Lc.6:7). "Ta không lên án chị đâu! Chị hãy về bình
an, và đừng phạm tội nữa!" (Lc.6:11). Qua đó, chúng ta xác tín
rằng tâm tư của Đức Kitô không như người thế gian luôn khép
kín, xét đoán...để rồi gạt bỏ đức ái bên lề cuộc sống. Điều này
thật đáng cho chúng ta phải suy tư và phải xét lại khi chúng ta
có những cái nhìn về người khác. Chúng ta xét đoán ai thế nào
thì chính chúng ta cũng sẽ bị Thiên Chúa đoán xét như
vậy...chúng ta lấy đấu nào đong cho ai, thì chính Thiên Chúa sẽ
lấy đấu ấy đong lại cho chúng ta (Lc. 6:38). Lòng nhân từ của
Thiên Chúa không biên giới, sự phán đoán của Người hằng luôn
công minh chính trực, nhưng cũng đầy lòng thương xót. Đức ái
chỉ được lớn lên trong lời nói khi chúng ta nói trong sự thật, sự
thật đó chính là Đức Kitô, vì Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết
chính Ngài là con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Jn. 14:6).
a/ Không xét đoán
Cũng như Đức Kitô không lên án người phụ nữ phạm
tội. Không lên án đồng nghĩa với không xét đoán. Người ta
thường lỗi đức ái rất nhiều trong tư tưởng, vì hay xét đoán người
khác. Đó là điều Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại không ngừng, và
đôi khi Người còn nhấn mạnh nữa : Đừng xét đoán để khỏi bị
xét đoán. Có khi Người dùng lời lẽ rất nặng để nói về những ai Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
834
hay lên án kẻ khác : “Đồ giả hình”. Theo các sách Tin mừng,
hạng người đáng ghét nhất là hạng người này.
Ðừng xét đoán, trên bình diện tự nhiên tự nó đã nói lên
phần nào tính chất mơ hồ rồi. Xét đoán được ghép bởi hai động
từ khác nhau là xét và đoán. Xét là tìm hiểu. Ðoán là phỏng
chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, phải kiếm
nguyên nhân, phải phân tích để có dữ kiện rõ ràng. Ðoán thì dễ
hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy. Ðộng từ
đoán dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi
nói xét đoán một người thì có phần xét và cũng có phần đoán.
Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nẩy sinh từ
đó.
Chẳng hạn, ai cũng hiểu nụ hôn là biểu tượng của tình
yêu. Thế nhưng, cái hôn của Juda lại có ý nghĩa khác: nụ hôn
phản bội. Nên vấn đề xét đoán thật phức tạp. Có hai thứ phức
tạp. Phức tạp nơi đối tượng bị xét đoán: như hoàn cảnh, lương
tâm của khách thể. Và phức tạp nơi chủ thể xét đoán: như giới
hạn tri thức của chủ thể, ảnh hưởng tình cảm của chủ thể khi xét
đoán theo nguyên tắc :”Suy bụng ta ra bụng người".
Một cái khó khác. Xét đoán rất gần với xét xử. Vì xét
đoán là một khả năng trời ban tự nhiên như thế, nên mọi người
đều có khuynh hướng ngồi ghế chánh án xét xử người khác.
Chúng ta xét đoán người, thì người lại xét đoán ta. Mọi người
xét xử lẫn nhau. Cổ nhân nói :”Bàng quan giả tỉnh, đương cục
giả mê” : việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Đúng như lời
ông Térence nói : “Người ta xét đoán việc của người khác hay
hơn chính cả việc của mình”. “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt của
ngươi trước đã rồi mới thấy cái rác nơi mắt anh em ngươi”
Kinh nghiệm cho hay, một khi làm quan án, bao giờ
người ta cũng thích lên án nặng hơn tội trạng của đương sự, ít
khi xem xét những hoàn cảnh chi phối mà giảm án cho họ, bởi Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
835
vì con người thường hay thích “vạch lá tìm sâu tìm cái lỗi của
người khác, mà không tự xét đến cái lỗi của mình”
Nhưng, con người có khả năng đoán xét, nếu thiếu khả
năng xét và đoán hiểu thì con người và các sinh vật không thể
tồn tại. Ngay con vật cũng có đoán xét tuy không sáng suốt bằng
con người. Con chim đã một lần bị mũi tên bắn phải, lần sau
thấy cành cây cong cũng sợ, do đó mới có thành ngữ “kinh cung
chi điểu”. Tất nhiên, đây chỉ là ý nghĩa tượng trưng mang tính
ước lệ, nhưng không vì thế mà mất đi chút giá trị nào.
Người Việt nam chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về
nhận xét và đoán hiểu được cô đọng lại trong những câu ca dao
tục ngữ từ thiên nhiên, thú vật đến con người.
Nhìn trời nước mây gió người ta nói :”Chớp đông nhay
nháy, gà gáy thì mưa”.
Nhìn vào mặt người nào đó, người ta nói :
Xem mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Tuy nhiên, đấy chỉ là ước chừng theo kinh nghiệm chứ
nhiều trường hợp không xẩy ra như vậy và có khi còn ngược lại
nữa. Dầu có những sai lầm như thế, nhưng xét đoán vẫn là một
thuộc tính bẩm sinh của con người vì chính nhờ nó con người
ngày một tiến bộ và thăng hoa. Nếu thiếu xét đoán ta có thể đón
kẻ cướp vào nhà mà cứ tưởng đón nhận hiền nhân.
Thiếu xét đoán, ta rất có thể lầm lẫn biết bao điều trong
đời sống, cả những lầm lẫn có thể dẫn chính ta, hoặc các người
thuộc trách nhiệm, mà Chúa đã trao phó cho ta trông nom quản
lý bị nguy hại hoặc tử vong.
Những đoán xét ấy, có thể nhiều khi không chính xác
hoàn toàn, nhưng lại rất cần thiết vì nhờ đó, ta được an tâm và
biết rõ mình đang làm chủ vận mệnh mình. Không thể đoán xét Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
836
nếu không có trí khôn, trí hiểu. Mà trí khôn, trí hiểu đều do
Chúa ban để nhờ đó, con người biết xét đoán.
Nếu hiểu thuần tuý không được xét đoán ai, có thể coi là
thiếu thực tế. Là vì, làm sao chúng ta sống mà không có một sự
xét đoán nào? Ta không thể thấy, không thể nghe, không thể
biết, mà không có ít nhiều đánh giá về con người hay sự việc mà
ta thấy, ta nghe, ta biết, nghĩa là có xét đoán.
b/ Xét đoán trong tình thương
Thật ra, điều phải khai trừ khỏi lòng ta, không phải là sự
xét đoán cho bằng sự độc địa trong xét đoán, tức là một cách lên
án người khác. Theo Luca, Chúa nói: "Anh em đừng xét đoán,
thì anh em sẽ không bị xét đoán", rồi tiếp ngay sau là một lời
khác như để minh giải cho lời trên: "Anh em đừng lên án thì anh
em sẽ không bị lên án" (Lc 6,37).
Tự nó, hành vi xét đoán vô thưởng vô phạt. Nó có thể
đưa tới điều xấu, mà cũng có thể đưa tới điều tốt. Lời Chúa chỉ
kết án những việc xét đoán xấu. Một người mẹ trong gia đình và
một người xa lạ với gia đình có thể cùng xét đoán về một lầm
lỗi nào đó của người con trong gia đình này. Xét đoán của hai
người sẽ khác nhau xa. Người mẹ xét con trong tâm trạng đau
khổ vì lầm lỗi của con, cảm thấy mình cũng có trách nhiệm,
thấy phải giúp con sửa lỗi này, không muốn cho người khác biết
con mình có lỗi. Còn như nếu là người ngoài xét đoán, thì có thể
có ít xít ra nhiều, có thể tìm cách hạ giá người khác để đưa mình
lên. Xét đoán của ta về người khác cũng phải giống như của bà
mẹ trên đây, vì như Phaolô nói, chúng ta là những bộ phận của
một thân thể (Rm 12,5).
Chúng ta nhận rằng bất cứ ai có một trách nhiệm nào về
người khác (cha mẹ, bề trên, cha giải tội.) đều phải xét đoán.
Ðôi khi xét đoán còn là cách phục vụ cho Giáo Hội hay cho xã
hội. Tương tự như nơi thân xác chúng ta, đôi mắt có nhiệm vụ Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
837
quan sát. Nhưng ăn thua là phải có tình yêu kitô giáo. Tình yêu
có khả năng thay đổi ngay cả xét đoán, biến một hành vi không
yêu thương thành một hành vi yêu thương. Chính Phaolô cũng
đã xét đoán đồng bào Do thái của mình ở đầu thư Rôma (Rm
2,17tt), nhưng trước mặt Thiên Chúa và đối diện với lương tâm,
ngài biết rằng mình yêu họ mà làm thế. Một tình yêu chân thật,
không giả hình.
2. “Bác ái không được giả hình" (Rm 12,9)
Như trên đã nói: Đức ái chỉ được lớn lên trong lời nói
khi chúng ta nói trong sự thật, sự thật đó chính là Đức Kitô, vì
Ngài đã mạc khải cho chúng ta biết chính Ngài là con Đường, là
Sự Thật và là Sự Sống (Jn. 14:6).
Trong lời khuyên về đức ái của thánh Phaolô, Ngài nói:
"Lòng bác ái của anh em không được giả hình". "Không giả
hình" là một hạn từ hiếm hoi trong Tân ước, hầu như chỉ được
dùng để xác định đức ái kitô giáo. Nó cũng có nghĩa là "không
bôi bác" (2Cr 6,6; 1Pr 1,22). Vậy đức ái không giả hình là nó
phải thành thật, chính thực, không bôi bác, hết lòng. Cũng như
rượu nho phải ép ra từ trái nho mới "gin", tình yêu cũng phải
phát xuất từ tấm lòng mới thật.
Tư tưởng của Phaolô đúng là rập theo tư tưởng của Ðức
Giêsu. Quả thực, có lần Chúa nói: lòng là chỗ quyết định giá trị
việc làm của người ta: "Tự lòng phát xuất những ý định gian tà"
(Mt 15,19). Về đức ái, có thể nói Phaolô đã trực giác thấy một
thế giới hoàn toàn nội tâm, vượt lên trên thế giới hữu hình và
bên ngoài của nó, tức những hành vi và lời nói bác ái.
Trực giác này còn được thấy rõ trong đoạn thư Corintô
nói về đức ái (1 Cr 13). Ðọc kỹ đoạn này, ta thấy Phaolô hoàn
toàn nhấn mạnh về đức ái nội tâm, về những tình cảm bác ái:
bác ái thì rộng lượng, không ghen tương, không nổi giận, tha thứ
hết, tin mọi sự, trông cậy mọi sự. Ta không thấy có gì liên hệ Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
838
trực tiếp với việc làm điều thiện, với những việc bác ái. Tất cả
đều đưa về cội rễ là muốn điều thiện. Ý muốn đi trước việc làm.
Phaolô cũng nói lên sự khác biệt giữa bác ái bên ngoài
và bác ái bên trong. Bác ái bên ngoài, cho dù là việc lớn mấy đi
nữa, cũng chẳng ích gì cho mình, nếu không có bác ái bên trong.
Không có bác ái bên trong, thì đó là bác ái giả hình. Bác ái giả
hình là làm điều tốt mà không yêu mến. Cái bên ngoài không
tương ứng với cái bên trong. Nó chỉ có cái mã ngoài là bác ái.
Có thể nó che giấu một sự ích kỷ, bác ái vụ lợi, hoặc làm vì do
áy náy hay hối hận trong lương tâm mà thôi.
Vấn đề không phải là coi nhẹ việc bác ái bên ngoài cho
bằng tạo cho nó một nền tảng chắc chắn, chống lại sự ích kỷ
hoặc những hình thức gian trá của ta. Nền tảng này là bác ái.
Chính Thiên Chúa đã đặt nền tảng này khi dạy: "Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình" (Mt 22,39). Ngài không dạy:
phải yêu người thân cận như yêu mến Thiên Chúa. Vì sao? Là
vì, người ta có thể gian dối khi yêu mến Thiên Chúa, nhưng
không thể gian dối khi yêu mình. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ai
nấy đều rõ phải yêu mình ra sao.
Yêu mến không giả hình là yêu đến độ không thể dối trá
được, vì chỉ có mình ta đối diện với ta, và có Thiên Chúa biết.
Nhờ con đường này, người anh chị em đi vào tận thâm sâu con
người của tôi, cái mà Kinh Thánh gọi là "con người bên trong".
Người anh chị em đó trở thành người thân cận, vì tôi mang
người đó trong tâm hồn tôi, cho dù chỉ có mình tôi với Chúa và
với chính tôi. Ðó là điều cao quý nhất mà một người có thể ban
tặng cho người khác. Thì từ đời dời, Thiên Chúa đã làm như thế
cho ta. Ngài mang ta trong trái tim Ngài. Ngài đã làm điều tốt
cho ta, vì Ngài muốn điều tốt cho ta.
3. Kết: “Xin tạo cho con một trái tim mới” Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
839
Bác ái trong tư tưởng, không có nghĩa là không hành
động. Nhưng thiết nghĩ rằng để có thể sống yêu thương nhau
như lời truyền dạy của Chúa Kitô thì phải phát xuất từ tấm lòng.
Tấm lòng đó là niềm tin sâu sắc vào Đấng dựng nên chúng ta là
Cha Toàn Năng chí ái và tiếp bước theo chân Người.
Dõi theo chân Chúa Giêsu để sống yêu thương thì luôn
có đó thập giá phải gánh vác. Ai không can đảm vác thập giá
mình thì không xứng đáng làm môn đệ của Chúa Kitô. Yêu
thương ai không phải là nhắm mắt làm ngơ hay tự bó tay chịu
trận để người đó mãi đắm chìm trong tội, mà phải nỗ lực làm
cho họ hoán cải, đổi thay. Cầu nguyện cho họ chúng ta không
chỉ dừng lại ở động thái “lâm râm” mà còn phải nắm tay lại
giúp họ sửa đổi cung cách hành xử bất công của họ. Tin mừng
cho chúng ta thấy rằng sau khi cầu nguyện thì Chúa Giêsu
không ngồi đó mà chờ đợi nhưng mau mắn thực thi thánh ý
Chúa Cha bằng cả mọi nỗ lực của mình, có khi sau đó lênh đênh
trên thuyền giữa sóng biển mà vẫn ngủ say, có khi phải toát cả
mồ hôi pha lẫn máu và đến cả khi thân thể chẳng còn hình tượng
người ta nữa với trái tim bầm dập nát tan.
Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới.
Đã tin nhận Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Cha Toàn Năng thì
phải nên hoàn thiện ngày mỗi hơn cho xứng với phận làm con.
Do đó, hãy nhìn anh em bằng đôi mắt tình thương. Tình
yêu chân thành là cách giải quyết tổng quát. Nếu ta có lòng bác
ái, thì bất cứ ta làm điều gì, đó sẽ là điều phải làm, vì "đã yêu
thương thì không làm hại người đồng loại" (Rm 13,10). Chính
theo nghĩa này mà Augustinô đã nói: "Cứ yêu đi và làm điều
bạn muốn. Nếu bạn yên lặng, hãy vì yêu mà yên lặng; nếu bạn
lên tiếng, hãy vì yêu mà lên tiếng; nếu bạn sửa lỗi, hãy vì yêu
mà sửa lỗi; nếu bạn tha thứ, hãy vì yêu mà tha thứ; hãy có cội rễ
tình yêu trong đáy lòng bạn, từ cội rễ này, không thể phát xuất
điều gì khác hơn là điều tốt". Bản Thông Tin – Số 198- Tháng 10 năm 2014
840
Trên nền tảng đức ái đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ
biết yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Vì yêu thương
nhau nên chúng ta không chỉ không làm những gì cho tha nhân
điều mà ta không muốn tha nhân làm cho mình mà còn tiến đến
chỗ tích cực làm cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm
cho mình (x.Mt 7,12).