Phúc
Âm: Mc 10, 2-12
"Sự
gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân
rẽ".
Khi
ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa
Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình
chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông
thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị
và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính
vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra
điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên
Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ.
Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình,
và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không
còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa
đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Về
đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và
Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác,
thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và
người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội
ngoại tình".
{Bấy
giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu
để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển
trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông
rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng
ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người
giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận
nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước
đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho
chúng.}
Suy
Niệm:
Chúa
Nhật XXVII Thường Niên Năm B
Khởi
nguyên 2,18-24; Hipri 2,9-11; Marcô 10,2-16
Trong
các Chúa nhật thường niên, phụng vụ thường đọc cho
chúng ta nghe một cách liên tiếp các đoạn chính yếu trong
một sách Tin Mừng. Năm nay, chúng ta đọc sách Tin Mừng theo
thánh Marcô, và lần trước chúng ta đã đọc xong chương 9
thì hôm nay chúng ta bắt đầu nghe sang chương 10, mà chúng ta
sẽ đọc tiếp trong các Chúa nhật sau.
Rồi
để làm sáng tỏ bài Tin Mừng, phụng vụ chọn một đoạn
Cựu Ước có khả năng hướng lòng chúng ta về mạc khải
của Ðức Yêsu để chúng ta thấy chính Người đã đến
không phải để xóa bỏ nhưng để kiện toàn và hoàn tất
luật cũ hay đạo cũ và mọi lời tiên tri trong Cựu Ước.
Chẳng hạn hôm nay bài sách Khởi nguyên đã được chọn vì
bài Tin Mừng. Ðức Yêsu đã gợi lại một câu trong sách
Khởi nguyên, thì phụng vụ đọc cho chúng ta nghe chính đoạn
sách ấy để giúp chúng ta dễ hiểu lời Tin Mừng hơn. Ðồng
thời chúng ta cũng sẽ thấy chính Ðức Yêsu sẽ làm cho bài
sách Khởi nguyên thêm giá trị.
Cuối
cùng bài Thánh Thư được chọn để dạy chúng ta biết sống
đạo một cách cụ thể, theo như các tông đồ đã chỉ bảo
cho giáo dân của các ngài. Không tất nhiên tư tưởng bài
Thánh Thư phải ăn khớp với bài Tin Mừng. Phụng vụ
thường chỉ muốn đọc cho chúng ta nghe hết thư này sang thư
khác. Chẳng hạn lần trước chúng ta đã đọc hết thư
Yacôbê, thì kể từ Chúa nhật này và liên tiếp trong nhiều
Chúa nhật thường niên sau này chúng ta được nghe đọc thư
Hipri, nói rằng của thánh Phaolô nhưng có lẽ chỉ là của
một tác giả hoặc môn đệ thân cận của ngài và thấm
nhiễm tinh thần của ngài. Ðoạn thư trích hôm nay không liên
ý trực tiếp với giáo huấn của bài Tin Mừng và bài
sách Khởi nguyên. Nhưng tuy nói về những vấn đề khác nhau,
cả ba bài Kinh Thánh vẫn bổ túc làm cho huấn giáo của Chúa
nhật này thêm phong phú.
Chúng
ta sẽ thấy bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên nói đến
nỗi an ủi mật thiết trong tương quan giữa người nam và
người nữ. Nhưng sánh sao được với niềm an ủi và thắm
thiết giữa Ðức Kitô và môn đệ Người, mà bài thư Hipri
hôm nay gợi lên? Chúng ta hãy lần lượt đọc lại những
bài Thánh Kinh ấy.
1.
Nam Nữ Là Một
Bài
sách Khởi nguyên hôm nay là một trong những bản văn rất
quý hóa trong kho tàng tư tưởng của loài người. Người ta
chỉ có thể chê khi đọc hời hợt và tưởng rằng bản văn
đó mới được viết ngày hôm qua, ở giữa thời đại khoa
học này. Ngược lại, nếu nhớ rằng nó đã khai sinh cách
đây vào khoảng ba nghìn năm và do một ngọn bút ở một
dân tộc ít văn hóa, người ta sẽ phải kinh ngạc và tự
hỏi làm sao tác giả có thể viết ra những tư tưởng thâm
thúy như vậy. Có cả một kho tàng khôn ngoan, tâm lý và
sáng suốt trong những lời văn này.
Con
người được mô tả như là một hữu thể cần hiệp thông
và thông cảm. Nó không thể sống cô đơn cho dù đang ở
giữa một cảnh bồng lai tiên cảnh như nơi địa đàng. Nó
cũng không thể thỏa mãn với sự bầu bạn của mọi thứ
động vật. Tác giả thật khéo ám chỉ loài người và loài
vật cũng chỉ là một giống động vật khi ông nói Adong nhìn
các giống vật và thấy chúng đều là "sinh vật", nghĩa
là cũng giống như ông là loài có sinh khí. Tuy nhiên lập
tức ông cũng nhận ngay ra địa vị "linh ư vạn vật của mình"
khi tác giả viết: Adong đặt tên cho từng loài, để tỏ ra
địa vị ưu việt của ông... "Nhưng con người vẫn không gặp
được sự trợ giúp nào tương đối". Adong chưa tìm
được vật nào giống như mình để cảm thông và làm đầy
đời sống cho mình. Nói cách khác, ông cảm thấy chưa đầy
đủ dù có cả vũ trụ và vạn vật ở dưới quyền. Ông
muốn và cần có một ai như mình nhưng lại khác mình và bổ
khuyết cho mình.
Thượng
đế đã can thiệp. Thiên Chúa không để con người cô đơn.
Tác giả sách Thánh dùng hình ảnh bình dân để diễn tả
sự can thiệp này. Yavê đưa Adong vào một giấc hôn mê,
Người rút một xương sườn của ông, lắp thịt vào, làm ra
người nữ và đem giới thiệu với ông. Vừa nhìn thấy,
Adong đã kêu lên: phen này, nàng là xương tự xương tôi,
thịt tự thịt tôi, nàng là Ishsha: (đàn bà) vì đã được
rút ra từ Ish: (đàn ông).
Rõ
ràng tác giả đã xây dựng hình ảnh từ "nguyên tự"
và từ quan niệm bình dân lấy sự giống nhau về xương thịt
để nói lên sự giống nhau về bản chất. Tức là tác giả
muốn khẳng định đàn bà cũng là "người" như đàn ông
và giữa nam nữ có một sự mật thiết bù đắp cho nhau. Tư
tưởng của ông tiến bộ hơn người đồng thời rất xa, vì
sau ông nhiều thế kỷ, ở nhiều nơi người ta vẫn chưa nhìn
nhận sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ. Và
với câu sau, "người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng
khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác", ông
làm cho độc giả thấy tình gia đình phu phụ keo sơn đến mức
nào.
Dù
sao cách nói của ông vẫn có nhiều hình ảnh và có thể
làm người ít học lấy hình ảnh làm thực tại. Họ đâu
có biết sách Khởi nguyên ở đoạn trước đã viết về nam
nữ như sau: "Thiên Chúa đã dựng nên loài người theo
hình ảnh mình. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng".
Vậy, điều mà ở đây tác giả nói một cách đơn sơ, tổng
hợp nhưng vẫn đề cao sự bình đẳng và đồng loại giữa
nam và nữ, thì ở chương sau ông đã dùng hình ảnh để
nói lên một cách dễ hiểu hơn. Chúng ta quý cả hai lối
trình bày và sung sướng được nghe nói đến những nét
thâm thúy nơi con người.
Tuy
nhiên ở đây phụng vụ không muốn lưu ý chúng ta về việc
nam nữ đồng loại và bình đẳng cho bằng việc họ thu hút
nhau, bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau, để dẫn chúng
ta sang bài Tin Mừng.
2.
Không Ðược Ly Dị
Chúng
ta không hiểu rõ hoàn cảnh vì sao các Biệt phái lại chọn
vấn đề rẫy vợ để thử Ðức Yêsu. Họ muốn thử gì?
Ðể xem ý kiến của Người về vấn đề ly dị ư? Không chắc
ở thời đó vấn đề có sôi bỏng như ở thời ta không,
cho dù luật Rôma bấy giờ cũng cho ly dị và tâm tư đạo
đức của người Dothái có vẻ không rõ ràng. Ðúng hơn,
họ muốn gài bẫy Người, để xem Người có kính trọng luật
Môsê không? Nhưng luật này nói thế nào? Họ chỉ có thể
trích được một câu trong sách Thứ luật (24,1) cấm lấy lại
một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết ly
thư, chớ không có chỗ luật nào nói rõ về việc được
phép ly dị... Chính các Biệt phái cũng phải nhận rằng Môsê
chỉ cho phép viết ly thư chứ không ra lệnh phải làm việc
này. Dựa vào chỗ đó, Ðức Yêsu làm cho họ hiểu rằng:
vì lòng dạ lì lợm của họ mà Môsê đã phải cho phép như
vậy. Ðó là một nhượng bộ bất đắc dĩ, không thể kéo
dài mãi mãi. Nước Thiên Chúa đã đến rồi; con người
phải dùng sức mạnh mà vào; người ta phải trở về với
Thiên Chúa và lệnh truyền của Người. Thế mà từ nguyên
thủy nam nữ đã khắng khít với nhau và đàn ông đã bỏ
cả cha mẹ mình để nên một thân thịt với bạn mình. Ðức
Yêsu giải thích việc đó là ý của Thiên Chúa muốn phối
hợp hai người lại với nhau, và không ai được phép phân
ly nữa. Về nhà, Người còn dạy rõ: không ai được rẫy
vợ mình để cưới vợ khác. Ai làm như vậy sẽ phạm tội
ngoại tình.
Thánh
Marcô không nói đến phản ứng của Biệt phái khi nghe Ðức
Yêsu trả lời, vì đứng về quan điểm luật họ còn biết
nói gì nữa? Nhưng đối với con người thời nay, có lẽ
phán quyết của Người còn cần được tìm hiểu thêm.
Người ta có thể đưa ra ý kiến này, ý kiến khác về vấn
đề ly dị. Phụng vụ hôm nay chỉ xin chúng ta suy nghĩ về bài
sách Khởi nguyên và đoạn Phúc Âm hôm nay để thấy việc
vợ chồng khắng khít với nhau là một cái gì nằm sâu trong
bản chất nam nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên từ nguyên
thủy. Ðó là ý muốn của tạo hóa và của bản tính con
người. Nếu điều này có lúc khó chấp nhận, thì chúng ta
hãy đọc tiếp đoạn Phúc Âm trên.
Thánh
Marcô nói đến việc Ðức Yêsu yêu quý trẻ nhỏ và dạy
chúng ta phải đón lấy Nước Trời như một trẻ nhỏ. Câu
nói này có thể có hai nghĩa. Hoặc là người ta phải đơn
sơ như trẻ nhỏ khi đón nhận Nước Trời, không xét nét,
không do dự vì trẻ nhỏ cho gì chúng cũng lấy. Hoặc là
người ta phải coi Nước Trời như hồng ân tốt đẹp, tinh
sạch mà người ta phải đón lấy như đón một trẻ nhỏ.
Bất cứ hiểu theo nghĩa nào, người ta cũng có thể dùng
Lời Chúa nói đây để giúp mình chấp nhận luật không ly
dị nói trên, vì rõ ràng đấy là ý Chúa, là Nước Trời
đến với chúng ta mà chúng ta phải đón lấy như trẻ nhỏ.
Chúng ta cũng có thể dùng bài Thánh Thư để khuyến khích
mình thêm vì tác giả thư Hipri, tuy nói đến một vấn đề
khác, nhưng cũng sẽ chỉ muốn chúng ta bắt chước Chúa mà
có tinh thần hòa hợp.
3.
Hãy Sống Khắng Khít
Tác
giả nhắc lại việc Ðức Yêsu đã ngang qua thống khổ tử
nạn mà được vinh quang huy hoàng. Trong chốc lát và theo một
diện nào đó Người đã tỏ ra như thua các Thiên Thần vì
hình dạng khổ nạn của Người. Nhưng đó là ý nhiệm mầu
của Thiên Chúa. Người muốn Ðức Kitô phải chịu khổ đau
như vậy để kiện toàn bản chất con người chúng ta. Người
muốn hướng dẫn số đông nhân loại lên phúc vinh quang nên
đã dùng thống khổ hạ Ðức Kitô xuống thân phận tôi
đòi tội lỗi như mọi người để khi Người được triều
thiên ban tặng thì cả nhân loại được chia phần vinh quang
của Người.
Như
vậy, ở đây tác giả thư Hipri đã nhấn mạnh đến sự
khắng khít giữa Ðức Kitô và loài người trong mầu nhiệm
tử nạn phục sinh. Có thể nói vì muốn được loan báo Danh
Chúa cho anh em và ngợi khen Thiên Chúa giữa cộng thể loài
người mà Ðức Kitô đã phải đồng hóa và nên một với
loài người trong đau khổ. Người không để lại cho chúng ta
một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất sao? Người
đang kêu gọi chúng ta không những kết hiệp bất khả phân ly
với Người mà còn với nhau nữa. Người đang khuyến khích
riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.
Mầu
nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ
thật sự nói lên điều này. Ðức Kitô chấp nhận sự
chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên
phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp
với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta
sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân
thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó
khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia
đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu
thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói
hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng;
như vậy đạo tốt sẽ làm đẹp đời. Và chúng ta sẽ thấy
đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.