Chiếc Áo Từ Nhân


(Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày
của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Radio Veritas Asia)

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
- 01 -
Chiếc Áo Từ Nhân

Marie Paranov, một bá tước phu nhân người Nga, đang trên đường đi Menton, bên Ðức để chữa bệnh lao phổi. Ngồi một mình trong toa xe lửa bà cảm thấy cô đơn lạc lõng. Người lão bộc Ivan cùng đi, chỉ đến toa của bà thăm hỏi và chờ lệnh của bà ở mỗi lần xe ngừng lại tại trạm nghỉ mà thôi.
Ðêm xuống dần trong khi tàu vẫn chạy nhanh, phu nhân cảm thấy khó ngủ nên bà mở ví ra trút hết những đồng tiền vàng trên lòng bàn tay và bắt đầu đếm, vì chồng bà đã cho bà một số tiền để hộ thân. Bỗng, bà cảm thấy một luồng gió lạnh tạt vào. Ngẩng lên, bà bắt gặp một người đàn ông cao lớn, ăn mặc chỉnh tề lịch sự và bị thương ở tay đi vào toa xe của bà. Ông ta đóng cửa lại và nhìn bà với đôi mắt đen nhánh. Bà run sợ quá đến nỗi những đồng tiền vàng rơi xuống sàn tàu. Người lạ mặt nhìn những đồng tiền vàng ấy và cúi xuống nhặt lên. Thừa cơ hội, bá tước phu nhân đứng dậy chạy ra phía cửa sổ định nhảy xuống tàu. Biết ý định của bà, ông ta nắm giữ bà lại và xin bà ngồi xuống rồi nói:
- Thưa bà, hãy nghe tôi. Tôi không phải là tên gian phi, tôi nhặt tiền này để trả lại cho bà. Tôi sẽ chết nếu bà không giúp tôi qua khỏi biên giới. Khoảng một giờ sau tôi phải có mặt ở trạm cuối cùng của nước Nga, mười phút sau đó tôi phải có mặt ở một nước khác. Nếu bà không cứu giúp tôi, tôi sẽ bị bắt, tôi không thể giải thích tại sao, nhưng xin bà hãy tin tôi. Tôi không sát nhân, không trộm cắp, không làm điều gì sai quấy. Tôi lấy danh dự thề với bà, xin bà hãy cứu giúp tôi.
Bà bá tước phu nhân lặng thinh, lấy lại bình tĩnh dần dần, còn ông ta thì ngồi bất động mắt nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng, bà liếc nhìn ông thật nhanh. Tàu lướt chạy nhanh trong đêm tối rồi dừng lại ở một trạm nghỉ. Người nô bộc Ivan đến cửa toa để nhận lệnh của bà. Bà nhìn người bạn đồng hành xa lạ rồi nói với lão nô bộc:
- Ivan, ta không cần ngươi theo ta đến Menton nữa, hãy lấy tiền này mà mua vé trở lại Saint Peterbourg. Cảm ơn lão đã giúp ta, hãy cho ta cái áo khoác, cái mũ và cái giấy thông hành của lão.
Người nô bộc không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nhưng theo lệnh của chủ, ông lột mũ, cởi áo khoác và trao giấy thông hành cho bà rồi ra đi. Bá tước phu nhân nói với người khách lạ:
- Hãy mặc áo, đội mũ vào. Bây giờ ông là Ivan, người nô bộc của tôi. Tôi chỉ cần điều kiện duy nhất là việc gì tôi làm cho ông, ông không được nói gì cả. Tôi không muốn bất cứ điều gì ngay cả khi ông chỉ nói với tôi một tiếng cám ơn.
Người khách lạ gật đầu, không nói một câu, im lặng làm theo ý bà. Chẳng bao lâu, tàu dừng lại lần nữa, nhiều cảnh sát đi vào toa. Bá tước phu nhân kiêu hãnh nói với họ:
- Tôi là bá tước phu nhân Paranov ở Saint Peterbourg, và đây là người đầy tớ Ivan của tôi.
Bà đưa cho viên sĩ quan coi giấy thông hành. Xem xong, họ trả lại bà. Trong đêm đó, hai người đều im lặng. Sáng hôm sau, tàu ngừng tại Menton. Ðây là trạm cuối cùng. Hai người chào từ giã nhau mà không nói với nhau một lời.
*  *  *
Tất cả những diễn biến trong chuyến tàu đêm ấy đã phát xuất từ trái tim đầy từ bi và nhân hậu của bá tước phu nhân. Chiếc áo khoác của người nô bộc Ivan đã trở thành chiếc áo từ nhân khoác lên một người cần lòng bao dung cứu giúp. Chiếc áo từ nhân ấy đã trở thành chiếc áo an toàn cho một người cần vượt biên giới. Trước một người van nài lòng thương xót, chiếc áo nô bộc đã trở thành chiếc áo từ nhân.
Biết bao nhiêu người chung quanh chúng ta đang cần một chiếc áo từ nhân để mong được sự an toàn trong cuộc sống, vượt qua biên giới sự xấu để trở thành một người tốt. Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới duy vật và thực nghiệm, mọi sự đều phải được kiểm chứng rõ ràng, dùng kiến thức để suy luận, dùng máy móc để phân định, dùng phán đoán của đám đông để kết luận, nhưng chỉ có tình người mới đo được chiều sâu và hiểu được hành động và ngôn ngữ của yêu thương.
Trong cái nhìn đức tin của kitô giáo, mỗi người sinh ra trên cõi đời này là một giá trị độc nhất, bởi vì mỗi người đều mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay ngu đần dốt nát, tất cả mọi người đều bình đẳng trong phẩm giá và nguyên vị khác biệt bất khả xâm phạm. Một con người dù có lầm lỗi bất toàn về thể xác cũng như tinh thần thì từ thâm sâu của cõi lòng họ vẫn còn ấp ủ một dấu tích tốt lành. Hãy trao tặng nhau những chiếc áo từ nhân, càng trao ban chúng ta càng lớn lên trong nhân cách. Thiên Chúa yêu thương đã bao phủ trên chúng ta biết bao nhiêu chiếc áo từ nhân của Ngài. Hãy nghĩ đến những hồng ân đó mà sẵn sàng trao ban một nhân ái, một ánh mắt cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một lời nói xây dựng, một trang viết kính trọng.
Lạy Chúa,
Xin giúp mỗi người chúng con luôn mau mắn khoác chiếc áo từ nhân cho những người gần chúng con nhất từ trong gia đình, nơi trường học, tại công sở, nơi phố phường, chốn công viên. Nhờ đó, chúng con sẽ có một thái độ, một cái nhìn khác về đạo đức và luân lý hợp với lẽ đạo làm người như Ðức cố hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: "Khi con sống trọn đạo làm người, là con sống trọn đạo Chúa".


- 02 -
Chân Lý Về Cuộc Ðời

Nữ ca sĩ Madona (nữ hoàng nhạc pop) đã gửi lên mạng lưới Internet một bức thư trong đó cô tâm sự về những nỗi nghi ngại và sự thiếu an toàn mà cô phải hứng chịu từng ngày. Madona khẳng định như sau: "Thật là sai lầm khi cho rằng cô là một người may mắn".
Say đây là nguyên văn lời tâm sự của Madona:
"Mọi người dựng nên một thế giới màu hồng ảo tưởng rồi nghĩ rằng tôi hẳn là nhân vật chính trong đó. Cũng đúng thôi, bề nổi cho thấy tôi rất nổi tiếng và giàu có. Tôi kết hôn với một người đàn ông tài năng và hoàn hảo. Tôi sinh được hai đứa trẻ xinh xắn. Nhưng đàng sau bề nổi ấy, cuộc sống của tôi rất mong manh, tựa như chỉ một cơn gió thị phi thoảng qua cũng đủ để làm sụp đổ hoàn toàn, lúc nào tôi cũng phải phấn đấu gồng mình để tồn tại. Mọi người bình phẩm về tôi cho nên tôi phải cố gắng, mỗi lần chuẩn bị cho một cuộc trình diễn tôi phải cố gắng, mỗi lần làm phim với chồng tôi phải cố gắng, cứ bình thản đi dạo phố tôi cũng phải cố gắng. Dường như chẳng bao giờ tôi được thả lỏng tâm hồn cũng như cơ thể của mình. Lý do tôi viết thư này cho các bạn là muốn nhận được sự cảm thông từ phía những người hâm mộ và đồng thời qua đây tôi cũng muốn chia sẻ kinh nghiệm sống của tôi. Trải qua nhiều sóng gió, tôi cảm nhận được rằng điều làm ta thanh thản nhất chính là hãy cho đi chứ đừng bao giờ mong đón nhận lại điều gì. Khi bị tuyệt vọng hoặc bế tắc, hãy làm điều tốt cho bạn bè và người thân của mình. Ðó chính là liều thuốc hữu hiệu để xóa tan sự u buồn lo lắng và ám ảnh".
* * *
Những lời khuyên thốt ra từ miệng của một người đã từng trải qua không biết bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời như Madona hẳn có giá trị. Có người khuyên chúng ta hãy quẳng gánh lo đi mà vui sống. Kỳ thực, dễ gì trút bỏ được gánh lo của cuộc đời.
Cuộc đời của chúng ta chẳng khác nào một giếng nước. Một giếng nước không còn được người ta đến kín múc nước sẽ không chóng thì chày trở nên khô cạn. Có biết bao nhiêu mạch nước nhỏ tiếp tế cho cái giếng, càng múc nước thì nước càng tuôn chảy vào giếng, nếu nước giếng không còn được múc lên nữa thì mạch nước ắt sẽ bị bịt kín và tắt nghẽn và phần nước còn lại trong đáy giếng sẽ dần dần bị bốc hơi, và như vậy giếng sẽ khô cạn.
Chúa Giêsu chính là giếng nước không bao giờ cạn mà Thiên Chúa đã mở ra cho nhân loại. Từ cạnh sườn Ngài khi bị một người lính La Mã chọc thủng, nước hằng sống đã tuôn trào để xoa dịu bao nỗi khát khao của con người. Mạch nước có được mở ra để trao ban thì nguồn nước mới tuôn trào.
Cái chết của Chúa Giêsu là tuyệt đỉnh của một cuộc đời hướng về tha nhân và tiêu hao vì tha nhân. Ðó cũng là chân lý về cuộc đời. Càng trao ban, càng dốc cạn, càng được múc lấy càng tiêu hao, càng mất chính mình con người càng trở nên phong phú, con người càng trở nên chính mình. Gánh lo của cuộc đời sẽ không tự nhiên mà vơi đi. Nó chỉ có thể nhẹ bớt khi con người biết ra khỏi bản thân và tìm đến với người khác.
Lạy Chúa,
Chúa biết chúng con đang khao khát sự bình an trong tâm hồn. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ khi nào chúng con biết ra khỏi bản thân tìm đến với tha nhân và sống cho tha nhân, chúng con mới có được sự bình an đích thực ấy.


- 03 -
Tự Vây Hãm Chính Mình

Nhà tu đức học người Hòa Lan nổi tiếng là cha Henri Nouwen có viết một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, dân chúng của một làng nọ sau khi đã thăm dò các nguồn lợi thiên nhiên của thế giới đã nói với nhau:
- Làm sao chúng ta có thể biết chắc rằng chúng ta có đủ nguồn lương thực để sống khi gặp khó khăn, bằng mọi giá chúng ta phải sống còn. Vậy thì trước tiên chúng ta phải tích trữ lương thực, vật liệu và sự hiểu biết để phòng khi có khủng hoảng chúng ta sẽ được an toàn.
Thế là chẳng bao lâu cái kho tích trữ của họ đều đầy ắp, những người khốn khổn chung quanh họ mới mở miệng xan xin:
- Quý vị đã có quá nhiều của cải dư thừa trong khi chúng tôi không có đủ lương thực để sống qua ngày. Quí vị có thể chia sớt cho chúng tôi một phần của cải dư thừa của quí vị không?
Nhưng những con người quá lo lắng cho ngày mai này trả lời:
- Dứt khoát là chúng tôi không thể san sẻ cho các người, chúng tôi phải đề phòng khi gặp nguy khốn.
Những kẻ khốn khổ vẫn tiếp tục van xin:
- Chúng tôi đang chết đói đây, xin quý vị vui lòng chia bớt cho chúng tôi một ít lương thực, vật liệu cũng như sự hiểu biết. Chúng tôi không thể chờ đợi được nữa, chúng tôi đang cần đến những thứ đó ngay bây giờ đây.
Nghe những lời van xin ấy, những người giàu có không những không động lòng thương mà còn lo sợ hơn nữa. Càng lúc họ càng lo sợ rằng những người nghèo đói sẽ tấn công họ. Họ liền nói với nhau:
- Chúng ta hãy xây tường chung quanh các kho lẫm của chúng ta để không một người lạ mặt nào có thể vào ăn cắp được.
Họ bắt tay vào việc xây tường. Tường cao đến độ chính họ cũng chẳng còn thấy ai ở bên ngoài và nhất là cũng chẳng còn biết có kẻ thù bên ngoài bốn bức tường không. Nỗi sợ hãi ngày càng lớn, họ nói với nhau:
- Kẻ thù của chúng ta nhiều đến nỗi họ có thể phá vỡ tường của chúng ta, tường của chúng ta không đủ kiên cố để chống đỡ họ, chúng ta cần phải đặt bom trên tường để không còn ai dám lai vãng đến.
Nhưng dĩ nhiên thay vì cảm thấy được an toàn bên trong bốn bức tường, những kẻ giàu có lại bị giam hãm trong bốn bức tường mà chính họ đã dựng lên. Họ còn sợ cả những trái bom họ cài trên tường. Họ không biết những trái bom ấy sẽ giết kẻ thù hay hãm hại họ. Và dần dà họ nhận ra rằng chính nỗi lo sợ chết đưa họ đến gần sự chết hơn.
* * *
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh tôn giáo tại Ấn Ðộ, người ta đọc được một biểu ngữ như sau: "Nếu Chúng Ta lấy Mắt Ðền Mắt Thì Cả Thế Giới Sẽ Ra Mù Lòa".
Quả thật, hận thù luôn đẻ ra hận thù, bạo động luôn làm phát sinh bạo động. Cuộc xung đột tại Trung Ðông hiện nay là một bằng chứng hùng hồn nhất về chân lý ấy. Ðối lại một cuộc nổ bom tự sát của người Palestin là một cuộc hành quân càn quét tàn bạo của người Do Thái. Cứ thế, người ta không biết chừng nào cái vòng lẩn quẩn của bạo động mới chấm dứt.
Trong khi những võ khí giết người hàng loạt đang đe dọa hủy diệt nhân loại thì các quốc gia lại tiếp tục gia tăng ngân sách quốc phòng, đeo đuổi nó như là một niềm tự hào dân tộc. Người ta quên rằng chính những phương thế người ta chọn lựa để tự vệ cũng có thể gây nguy hại cho bản thân mình chẳng kém gì khí giới của kẻ thù. Chưa bao giờ các quốc gia lại gia tăng ngân sách quốc phòng để chống lại các nước láng giềng, chưa bao giờ nhân loại đang bị đe dọa hủy hoại cho bằng lúc này.
Tựu trung, người ta nhìn đâu cũng thấy kẻ thù. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng càng sống trong nghi kỵ và sợ hãi con người càng ngày thấy mình có nhiều kẻ thù và càng bị vây hãm.
Thật ra, trước khi bị kẻ thù vây hãm con người đã tự vây hãm chính mình trong bốn bức tường mà mình đã tự tay dựng lên. Quan hệ giữa các quốc gia hay quan hệ giữa người với người cũng đều xây dựng trên một nguyên tắc. Càng mở ra với người khác, con người càng được an toàn. Trái lại, càng bị giam hãm trong nghi kỵ và sợ hãi con người càng cảm thấy bất an.
Lạy Chúa,
Chúa biết chúng con đang khao khát sự bình an đích thực trong tâm hồn. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ khi nào chúng con luôn biết mở rộng tâm hồn và lòng bàn tay ra để đến với người khác chúng con mới có được sự bình an ấy.


- 04 -
Bí Quyết Của Sự Bình An

"Adam là một người đàn ông đã hai mươi lăm tuổi nhưng không thể nói, không thể tự mình thay quần áo. Anh cũng không thể đi đứng một mình, ăn uống một mình. Anh cũng chẳng biết khóc hay biết cười. Thỉnh thoảng, anh mới dùng ánh mắt để liên lạc với người khác. Cuộc sống của anh bị câm, tay chân anh co quắp, người anh co giật liên hồi và dù phải uống thuốc rất nhiều, những cơn động kinh vẫn không thuyên giảm. Ðôi khi anh tru tréo, một vài lần rồi thấy những gịot nước mắt lăn trên gò má anh.
Hằng ngày, phải mất một tiếng rưỡi đồng hồ, để đánh thức Adam dậy, cho anh uống thuốc, dìu anh vào phòng vệ sinh, tắm rửa cho anh, đánh răng cho anh, mặc quần áo cho anh, đưa anh vào nhà ăn, cho anh ăn sáng, đặt anh vào xe lăn và đẩy anh đến nơi anh sẽ ở lại suốt ngày để tập cử động theo phương pháp trị liệu".
* * *
Tác giả của những dòng tường thuật trên đây là cha Henri Nouwen, một linh mục người Hòa Lan, người đã để lại rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về tu đức học. Ở tuyệt đỉnh của sự nghiệp, cha đã rời bỏ chân giáo sư tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, để tìm đến một cộng đồng có tên là Bình Minh tại Toronto, Canada. Ðây là một trung tâm dành cho những người khuyết tật. Trong những người được cha Nouwen săn sóc có một người thanh niên tên là Adam. Theo mô tả trên đây, Adam quả là một người đàn ông mà nhiều người xem như đang sống kiếp cỏ cây, một con người hoàn toàn vô dụng cho xã hội, một con người lẽ ra đừng sinh ra thì hơn. Nhưng cho tới lúc qua đời, cha Nouwen vẫn luôn luôn xác tín và khẳng định rằng chính cha chứ không phải Adam là người được may mắn nhất trong mối quan hệ này.
Cha Nouwen nói rằng trong những tháng ngày ở bên cạnh Adam, cha đã có được sự bình an sung mãn đến độ tất cả những công việc khác đều trở nên nhàm chán. Ngồi bên cạnh người thanh niên tật nguyền, bất lực như một thơ nhi cha bỗng nhận thấy rằng đoạn đường đi trước kia của cha, trong đó cha phấn đấu để tìm kiếm danh vọng, đầy dẫy những giành giật và bạo động; nhưng từ Adam cha đã học được rằng: "điều làm chúng ta là người không phải không phải là lý trí mà là trái tim của chúng ta, điều làm cho chúng ta là người không phải là khả năng suy tư mà chính là khả năng yêu thương". Ai nghĩ rằng Adam là một tạo vật sống như cỏ cây hay thú vật, người đó không nắm bắt được mầu nhiệm thâm sâu theo đó Adam cũng có thể trao ban và đón nhận tình yêu.
Tất cả những vị đại thánh trong xã hội đều đã khám phá và sống theo bí quyết của sự bình an trên đây. Các ngài thấy được điều mà mắt thường không muốn thấy; các ngài thấy được điều cao cả trong cái tầm thường nhỏ bé; các ngài thấy được lợi lộc trong mất mát, vinh quang trong đau khổ, sự sống trong cái chết. Tựu trung, điều mà các thánh thấy được đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi: "Phúc cho những kẻ khó nghèo, những ai hiền lành, những kẻ khóc lóc, những người khao khát điều công chính, những ai có lòng xót thương, những ai ăn ở thuận hòa và những ai bị bách hại vì lẽ công chính". Các thánh là những người đã thực thi châm ngôn của thánh Phaolô: "Vui với người vui, khóc với người khóc, nghèo với người nghèo, yếu đuối với người yếu", đó chính là bí quyết của sự bình an đích thực.
Lạy Chúa,
Chúa biết chúng con đang khao khát sự bình an đích thực. Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chúng con chỉ thực sự có được bình an trong tâm hồn khi nào chúng con biết sống thuận hòa và yêu thương mọi người, nhất là những kẻ bé mọn trong xã hội.


- 05 -
Nghịch Lý Của Tin Mừng

Ernest là một bác sĩ giải phẫn vừa ra trường. Năm 1968, ông đến phục vụ tại Việt Nam. Một trong những bệnh nhân đầu tiên của ông là một binh sĩ Mỹ mười chín tuổi vừa bị thương trong một trận phục kích. Ðôi mắt và cả đôi chân của anh đều bị tàn phá. Bác sĩ Ernest đã mất bảy tiếng đồng hồ liền để giải phẫu cho người thanh niên đáng thương; nhưng sau đó ông đã bị các bạn đồng nghiệp kịch liệt đả kích, họ chỉ trích ông không phải vì ông đã thiếu trách nhiệm mà chỉ vì ông đã chu toàn nhiệm vụ một cách quá tốt đẹp. Họ nói với ông như sau:
- Cậu lính này đã hoàn toàn bị tàn phế, lẽ ra anh không nên chữa trị cho nó mà phải để cho nó chết thì tốt hơn.
Những lời này đã ám ảnh bác sĩ Ernest trong suốt hai mươi năm trời. Ông luôn bị dày vò bởi ý nghĩ phải chăng mình đã chẳng đẩy người thanh niên này vào một cuộc sống vô tích sự và khổ đau. Cuối cùng, ông quyết định phải giải quyết vấn đề. Ông đã bỏ ra hai năm liền để dò tìm tông tích của người lính này, và điều mà ông đã tìm thấy đã giải tỏa được nổi ẩn ức trong tâm hồn ông.
Thật thế, người thương binh mà ông đã giải phẫu hồi năm 1968 giờ đây vẫn là một người đàn ông tàn tật đang ngồi trên xe lăn. Nhưng người đàn ông tàn tật này không hề là một người đang đau khổ, ông đã lập gia đình và có được hai người con gái, ông đã tốt nghiệp đại học, ông đã theo học cách lặn sâu dưới nước và hiện đang theo một khóa đặc biệt để giúp những người thương tật thích nghi với sự bất hạnh của mình. Ở vào tuổi bốn mươi ba, người cựu chiến binh này tỏ ra tràn đầy nhựa sống và có một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa. Khi được một ký giả hỏi về những thành tựu của mình, ông trả lời:
- Tôi đặt niềm tin nơi Chúa.
Cuộc tranh luận giữa bác sĩ Ernest và các bạn đồng nghiệp của ông cách đây trên ba mươi năm hiện vẫn tiếp tục sôi nổi trong giới y khoa. Bác sĩ Ernest bị người ta xếp vào phe bảo thủ, ông nói như sau:
- Tôi được dạy để chữa trị cho những người bị thương chứ không phải để cho họ chết.
Các bạn đồng nghiệp của ông đại diện cho một trường phái mới, họ chữa trị có tính toán, những ai họ xét thấy không đáng sống thì họ để đó mặc kệ rồi chờ chết. Khi người thương binh Mỹ được đưa về Hoa Kỳ để tiếp tục chương trình hồi phục, có người chất vấn bác sĩ Ernest:
- Tại sao để cho một người như thế tiếp tục sống?
Ngày nay, bác sĩ Ernest đã tìm được câu trả lời cho chính mình, ông biết rằng mình đã làm đúng. Và khi con người biết mình làm điều đúng, lương tâm họ không bao giờ trách móc họ.
* * *
Vì con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa cho nên sự sống của con người là thánh thiêng. Sự sống ấy là thánh thiêng trong mọi giai đoạn phát triển của nó, nghĩa là từ lúc được tạo thành trong lòng mẹ cho tới lúc chết tự nhiên. Sự sống ấy là thánh thiêng cho nên bất khả xâm phạm trong mọi điều kiện sống. Sự sống ấy là thánh thiêng cho nên có ý nghĩa trong mọi tình huống của cuộc đời. Chính vì con người có một phẩm giá thánh thiêng và bất khả xâm phạm cho nên giản lược nó để xây dựng thành một phương tiện để sử dụng, lèo lái, vứt bỏ là một tội ác. Có những người bị người khác loại trừ, chối bỏ hay chà đạp; nhưng cũng không thiếu những người tự chối bỏ chính mình bằng những hành động chối bỏ và loại trừ người khác. Khi chối bỏ và chà đạp người khác, con người cũng chối bỏ chính phẩm giá cao cả của mình. Không ai có thể làm tổn thương người khác mà không đồng thời làm thương tổn chính bản thân. Tôn trọng người khác cũng chính là tự trọng. Ðây chính là nghịch lý của Tin Mừng, con người chỉ lớn lên trong nhân cách khi họ nhỏ lại trong phục vụ và quên mình, con người càng trở nên giàu có khi họ biết dốc cạn để sống cho người khác.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn thức tỉnh để nhìn nhận, tôn trọng và yêu mến Chúa trong mọi người, nhất là những kẻ bé mọn nhất trong xã hội.