Lúc vị linh mục khóa cửa nhà xứ thì gã đàn ông đã đứng cạnh bụi hoa giấy theo dõi. Gã lảng vảng ở đây từ ngang chiều. Lúc ngài còn làm việc ở bàn viết, gã đàn ông đã đứng sát ngay cửa sổ.
Qua khe cửa gỗ, hắn theo dõi từng hành động của linh mục, nhưng vị linh mục không hay biết gì. Hắn có thể đi bất cứ chỗ nào trong khu nhà xứ mà bầy chó cũng không sủa. Hắn có lối bước nhẹ nhàng như một bóng ma.
Khóa cửa xong, vị linh mục cầm sách nguyện ra nhà thờ. Chiếc đồng hồ quả lắc treo ở phòng khách thong thả buông tám tiếng đều đặn. Tám giờ tối. Linh mục mở cửa ở đầu nhà thờ, vào phòng áo lễ. Gã đàn ông đã ngồi sẵn ở một góc tối, cách gian cung thánh mấy hàng ghế. Tất cả các cửa đều khóa chặt, nhưng hắn ta có một lối riêng và hắn đã vào tới chỗ ngồi trước khi linh mục mở xong cửa.
Thánh đường vào giờ đó chỉ còn tượng chịu nạn và ngọn đèn chầu là đôi bạn. Linh mục đốt một ngọn đèn. Ánh sáng không đủ sức để tỏa tới chỗ người đàn ông lạ mặt ngồi. Bóng tối mênh mông. Im lặng. Một bước chân nhẹ trên nền gạch cũng gây thành tiếng vang. Linh mục mở sách kinh, bắt đầu cầu nguyện. Chàng là một linh mục trẻ mới ra trường. Tối nay mới chỉ là một tối trong năm linh mục thứ hai của chàng. Gã đàn ông cũng xấp xỉ tuổi đó, khoảng ba mươi. Khi linh mục bắt đầu cầu nguyện, gã đàn ông ra khỏi ghế. Ði lên phía cung thánh, hắn vòng ra đàng sau tòa giải tội, đứng ngay bên cạnh linh mục. Hắn có vẻ rình mò như một tên trộm, nhưng không có vẻ gì sợ sệt. Dường như gã đã quen ngôi nhà thờ này lắm rồi. Bước chân bình tĩnh, tự tin, hắn tỏ cho thấy hắn đã biết rõ từng góc cạnh của giáo đường.
khi đọc xong kinh chiều, linh mục cúi đầu cầu nguyện. Chiều nay linh mục suy niệm về quyền lực mà Chúa trao cho mười hai tông đồ. Trong tâm trí linh mục hiện rõ nhóm Mười Hai đang chia tay nhau để mỗi người một nẻo đường trên những lối mòn của Galilêa. Linh mục nghe như thấy tiếng cười dòn giã của mấy tông đồ trẻ. Dáng điệu âu lo vì trách nhiệm trên khuôn mặt của Phêrô. Từ cõi hai ngàn năm xưa, tiếng Phêrô vọng về:
- Bình an ở cùng anh em, chúng ta chia tay nhau ở đây.
Một người trong bọn đáp lại:
- Chúng ta sẽ gặp nhau ở Jerusalem.
Họ chia tay nhau. Mặt trời ửng đỏ ở phương đông. Dăm ba người con gái quẩy vò kín nước. Sinh hoạt của ngôi làng nhỏ miệt Galilêa đang bắt đầu sau một đêm dài. Mấy con lừa biếng nhác lấy làm khó chịu vì phải chở đồ ra vườn nho. Tôma, một người tuổi trung niên trong nhóm bỗng dưng bực mình vì nhớ đến Juđa, chàng lẩm bẩm mấy lời cau có. Một gã khác trẻ hơn, đeo túi vải, dường như túi lương thực của cả bọn, cất tiếng gọi:
- Này, nhìn cho kĩ, tay Ta vẫn còn máu đây!
Hắn cười thích thú theo dáng điệu chế nhạo. Tôma hiểu ý họ đang chế diễu mình, chàng hậm hực không nói. Trí tưởng tượng của linh mục đứng lại ở đó. Chàng nhìn lên bàn tay thương tích của Chúa rồi bỗng có ý nghĩ lạ lùng: Chớ gì máu trên cánh tay kia chảy xuống bàn thờ cho khăn bàn thấm ướt máu đỏ! Gã lạ mặt lắng nghe lời cầu nguyện của linh mục:
- Xin Cha tha hết cả những yếu đuối và lầm lỗi của con. Xin cho con biết quên đi những gì là phụ thuộc để chỉ hướng về Cha như hoa hướng dương quay nhìn về phía mặt trời mà thôi.
Chàng im lặng một lúc rồi lại thì thầm:
Hai măm trong đời linh mục đã đủ cho con thấy ơn gọi và công việc của con. Thời gian ngắn nhưng cũng đủ cho con thấy con đường mà Cha đã đi ngày xưa. Cánh đồng mênh mông mà thợ gặt quá ít, bàn tay con lại ngắn. Con muốn ôm trọn vào lòng con mơ ước đó, mơ ước được chết trên cánh đồng, được tàn hơi vì mùa gặt. Hai năm linh mục đã cho con thấy quá nhiều nước mắt trong những đêm đen mịt mùng mà đàn chiên của con đang khóc. Có những tâm hồn khốn khổ với những sợi giây chằng chịt trói buộc của Satan. Họ tha thiết đi về với Cha nhưng yếu đuối đưa đời họ chìm xuống, đam mê nghẽn lối trèo lên. Họ biết thế, nhưng quyền lực của Satan mạnh quá, Cha ơi.
Gã đàn ông đứng núp sau tòa giải tội chăm chú nghe kĩ hơn mỗi khi linh mục nhắc đến tên Satan trong lời cầu nguyện của chàng. Vị linh mục trẻ tiếp tục cầu nguyện:
- Lạy Cha,
Và còn chính con nữa. Con cũng cần ơn sủng của Cha nhiều lắm. Cha phải ở cạnh con và nói cho con từng lời chỉ dẫn, nhắc nhở con từng bước dại khờ. Con chưa đủ tuổi khôn Cha ạ. Con phải đương đầu với một quyền lực có sức mạnh và xảo trá gấp trăm ngàn lần trí óc của con. Bóng tối cạm bẫy của Satan. Nhiều lúc con thấy quá lẻ loi, như có một mình con đứng giữa chiến tuyến. Giáo dân đáng lẽ phải là bạn song hành của con, nhưng vì yếu đuối và cũng lầm lẫn trong lối đi quanh co của bóng tối đã nhiều lần đưa đời con chìm xuống, làm lí tưởng theo Cha của con phải lao đao.
Cha ơi,
Bước chân con cũng xiêu vẹo, ấy vậy mà Cha bảo con phải là điểm tựa cho bao nhiêu những con cá nhỏ khỏi bị dòng nước lũ cuốn trôi ra biển khơi. Khó biết bao, phải không Cha?
Nói tới đó, linh mục cúi đầu sâu hơn. Im lặng. Ưu tư đượm nét buồn, chàng đang nghĩ về một điều làm chàng bận tâm. Chàng nhớ tới buổi gặp ông X chiều qua. Ông đã ra về với nét mặt không vui vì chàng đã chối từ phần góp vốn để làm ăn thương mại. Nhóm ông Z đề nghị một hướng đi mới cho giáo xứ. Chàng đã đắn đo nhiều về đề nghị ấy và chàng đã bác bỏ. Chung quanh chàng, đã có những lời chỉ trích, bất mãn. Chàng nhìn lên tượng chịu nạn, cầu nguyện tha thiết hơn:
- Con không thể theo ý họ được. Bất cứ điều gì có thể làm sứt mẻ tình huynh đệ trong cộng đoàn đều là lỗi nặng, vì tình thương là trên hết. Con không là nhà chính trị, con chỉ là linh mục. Ngày xưa họ cũng đã đòi Cha phải là nhà cách mạng để đuổi kẻ xâm lăng Rôma ra khỏi bờ cõi. Nhưng Cha đã chẳng là nhà cách mạng và họ đã giết Cha trên đồi máu. Con cũng yêu đất nước con, con thương dân tộc con. Nhưng con phải chọn một hướng đi không có máu và nước mắt.
Gã đàn ông nhăn mặt khi nghe lời nguyện của chàng. Hắn định làm một điều gì đó nhưng ngần ngại rồi lại quyết định thôi. Kiên nhẫn chờ xem linh mục còn cầu nguyện gì nữa không. Và quả nhiên, vị linh mục lại ngước nhìn cây thánh giá, nói với tượng chịu nạn:
- Xin Cha cho con can đảm đi trọn con đường Cha đã đi. Xin cho mây trời mãi mãi bay, đừng dừng lại, vì nếu mây chẳng bay thì mây không còn là mây nữa, mây chẳng đem mưa đến cho rừng khô lá đang đợi chờ.
Xin cho lòng sông chảy mãi về biển rộng, vì ngày nào sông ngừng chảy thì rác rưởi sẽ đọng lại và dòng sông sẽ thành cơn bệnh cho cỏ cây, hoa lá.
Nếu không có những thùng rác thì làm sao trần gian sống nổi. Nhưng Cha ạ, chẳng ai nhớ đến những bác phu quét đường dậy từ sáng tinh sương. Cha bảo con nhặt rác nhưng cấm con để rác làm cảm lạnh.
Nghe linh mục cầu nguyện, gã đàn ông bực tức. Nhăn mặt, hắn cúi đầu vào sát tấm vải che màn giải tội như muốn đọc hết những ý nghĩ trong đầu vị linh mục trẻ. Bất chợt, mặt hắn đỏ bừng, tức tối, hắn giơ tay phải tát thẳng vào mặt linh mục. Nhưng cùng một lúc, cánh tay trái chặn lại, bảo hắn phải kiên nhẫn. Linh mục không biết gì. Trên thập giá có tiếng Chúa nói với chàng:
- Con là con Ta yêu dấu. Con hãy tiếp tục đi và loan báo Tin Mừng trên mọi nẻo đường. Ðem bình an cho người bất hạnh. Mở ngục tù cho công bình nở hoa. Ðem ánh sáng cho kẻ kiếm tìm sự thật. Hãy loan báo triều đại hồng ân cứu rỗi. Một triều đại đang mở cửa chống lại quyền lực Satan.
Gã đàn ông nhìn lên thập giá. Mím môi lắng nghe. Hắn lại nhìn vị linh mục đang cúi đầu cầu nguyện. Trong cái dáng điệu hiền từ không đề phòng ấy, nếu gã đàn ông muốn giết vị linh mục thì quá dễ. Gã chỉ việc giáng một cây búa. Lặng lẽ. Kết thúc. Nhưng gã không làm như vậy. Hắn rời tòa giải tội, nhìn vị linh mục với bao nhiêu ý nghĩ và kế hoạch mà chỉ riêng hắn biết. Nhẹ nhàng, hắn vòng ra sau bàn thờ, đi xuống cuối, rồi thong thả ra lối giữa nhà thờ, đi lên dõng dạc chứ không rón rén như lúc trước. Khi gần đến chỗ linh mục, hắn giả vờ vấp té để linh mục nhận ra rằng còn một người nữa trong đêm thanh vắng này. Vị linh mục giật mình. Cái phản ứng đầu tiên là bối rối ngỡ ngàng. Linh mục không ngờ đêm khuya vắng lặng này lại có một người nữa. Họ là ai? Người? Ma quỷ?
Chàng cố lấy lại bình tĩnh nhưng vẫn không thể che kín được nỗi bàng hoàng. Nhà thờ đầy bóng tối. Sau khi cố ý làm cho linh mục nhìn thấy mình, gã đàn ông vội rẽ về phía trái bàn thờ, im lặng, đi nhanh ra cửa sau. Tất cả xẩy ra như trong giấc mộng. Vị linh mục không chắc thật đây đã là người, nhưng nếu không là người, thì ai? Tại thị giác của mình? Ảo ảnh? Không có lí luận nào trấn an được. Ðứng dậy, chàng bước nhanh theo người đàn ông ra cửa. Vội vàng, chàng đã bỏ quên không cầm theo cuốn sách nguyện. Người đàn ông biến mất dạng trong bóng đêm, lanh lẹn. Linh mục đã theo vội ra cửa ngay khi hắn rời khỏi gian cung thánh, nhưng không còn dấu vết.
Trên giường ngủ, linh mục trằn trọc với những ý nghĩ kì quái. Ai ở trong nhà thờ khuya như thế? Họ đã ở đó bao lâu? Tại sao lại giấu mặt? Khi gã đàn ông đi về phía trái bàn thờ để ra cửa sau, gã có ý cúi đầu nên linh mục không thể đoán được gã là ai, đàn ông hay đàn bà. Những câu hỏi không tìm được câu trả lời dằn vặt chàng. Trong những câu hỏi ấy có một thắc mắc: Hay là Th. Trâm? Nhưng tại sao lại là Trâm? Nàng đến nhà thờ vào đêm khuya làm gì?
...Cha thương, mấy bữa nay con buồn chi lạ cha ạ. Con cầu nguyện hoài mà chia trí quá đỗi. Dường như đời sống thiêng liêng của con đang xuống dốc lắm. Con hỏi kĩ lại lòng mình nhưng con đành chịu thôi, chẳng hiểu vì sao mình lại buồn. Cha giúp con nhé... Con có câu chuyện cần nói với cha... Con muốn đi xa đây một thời gian, chắc là con nhớ cha lắm đó...
Chàng chăm chú đọc thư của Th. Trâm. Một tình cảm êm đềm nào đó thoang thoáng lén đưa vào hồn. Th. Trâm đoan trang, kín đáo. Trâm kính trọng và thương mến chàng nhiều lắm. Trâm thường đem cho chàng từng li nước trái cây xay vào những trưa hè oi ả. Những nho nhỏ, những đơn sơ mà dễ thương. Trâm mến chàng trong tình thương ngưỡng mộ. Chàng đã nhiều lúc thẩm định lại tất cả những mối giây liên hệ. Trong những giờ xét mình, mối liên hệ giữa chàng và Trâm cũng được chàng đem kể cho Chúa nghe. Tình cảm trong ngời, bình yên. Chàng cũng đã xin Chúa gìn giữ để màu phượng đỏ, đỏ mãi, để mây cao cứ bay cao mãi, để hồn chàng luôn luôn bát ngát. Quen biết Trâm, chàng thấy như đó là một cánh hoa nhỏ cho bàn viết của chàng tươi hơn. Trâm đã cho chàng suy tư để ngời đốt và thẩm định lí tưởng của Chàng. Nhìn cây viết của Trâm tặng, chàng nhớ đến lời Trâm nói vào một ngày xa xưa:
- Chúa gọi con làm thiên thần của cha đó!
Và ngày đó chàng đã trả lời:
- Cha đọc Kinh Thánh chẳng bao giờ thấy thiên thần xức nước hoa!
Trâm cười. Ðôi mắt long lanh màu suối:
Cha chẳng biết chi hết. Thiên thần của Chúa thì làm gì biết xức nước hoa! Con là thiên thần của cha mờ! Thiên thần của cha khác thiên thần của Chúa chứ!
Ừ, vì thế mà có nhiều kẻ khổ vì thiên thần của mình đấy con ạ!
Ðôi má Trâm hây hây hồng, mắc cỡ vì câu nói của chàng. Ngoài tình thương ngưỡng mộ, rất có thể Trâm cũng yêu chàng như một tình yêu tự nhiên, nhưng Trâm không bao giờ nói một lời hai ý. Trâm có nét duyên đáng phục của một người con gái biết làm chủ các mơ ước của mình. Trâm có con tim trong vườn thơ cầu nguyện. Với chàng, Trâm là một đóa hoa trong khu vườn mà chàng đã quốc đất bằng lời kinh. Trước thập tự, chàng đã cầu nguyện cho Trâm. Có những lúc chàng cũng thấy như con tim xao xuyến cho một tình cảm lãng mạn, lúc đó, Trâm lại là lời nguyện giúp đưa chàng tiếp tục lên đồi cao với thập giá.
CÂU CHUYỆN XẨY RA LÚC MỘT GIỜ TRƯA
Ðọc xong thư của Trâm, chàng đi dạy học. Trưa đó chàng đã không kịp ăn cơm. Nghe người gọi, chàng hối hả lên đường, xách theo chiếc túi đựng dầu thánh và cuốn sách nguyện. Người thanh niên đẩy chiếc xe gắn máy lấm lem đầy đất bùn, rồ máy chở theo cha xứ của họ ngồi đàng sau. Chiếc xe lao đi, một làn khói trắng nhạt tỏa bay kín bụi trúc. Dáng điệu hốt hoảng của người thanh niên làm linh mục dù chưa nhìn thấy sự việc cũng linh tính một tai nạn u buồn, đớn đau.Vết thương không cầm nổi máu. Năm người nằm sóng soài không cử động. Máu đỏ. Tiếng khóc, tiếng kêu xót van xin, tiếng gào thét hốt hoảng làm chàng bối rối không biết phải làm gì. Người người nhốn nháo. Những khuôn mặt thất thần chạy hối hả. Ðau thương của chiến tranh, của những tiếng nổ không ai ngờ trước được. Trong đời sống linh mục, chiến tranh đã là lời nguyện từng ngày, từng giờ của chàng. Chẳng mấy ngày mà chàng không có những tin buồn, không nghe tiếng khóc tất tưởi trong đàn chiên của chàng. Và hôm nay, Trâm đó.
Trâm của lá thư chàng vừa mới đọc. Bây giờ Trâm nằm đây, còn đâu lời nói Trâm muốn chàng nghe. Nỗi buồn nào mà Trâm muốn đi xa. Chàng xức dầu thánh, cầu xin cho Trâm những lời kinh tha thiết. Trâm như cố mỉm cười trên đôi môi hấp hối như được an ủi rất nhiều vì có mặt của chàng. Ðôi mắt một thủa long lanh màu suối nhìn chàng lần cuối, ngập ngừng lăn dòng lệ. Chàng đặt tay lên đôi má mịn màng, bết máu trên mớ tóc đã một thủa như mây trời. Ðôi mắt Trâm nhìn yếu đuối, êm đềm, dặn dò như lời chào yêu thương vĩnh biệt. Chàng nắm chặt tay Trâm nhiều hơn như níu kéo lại một tình thân, một sự sống sắp chia li. Giọt nước mắt hé nụ trên đôi mắt của Trâm lăn dài, chảy xuống gò má. Trâm vĩnh viễn ra đi.
Chàng ngồi im lặng trước bàn viết, một cánh hoa trong khu vườn tâm hồn đã bị cắt đứt. Cánh hoa rũ chết hay bắt đầu trổ sinh? Thiên thần đã bay về trời cao. Kẻ ở lại là bổn phận, trách nhiệm với đời. Chiều nay, đền thờ sẽ có kinh cầu. Lời kinh ấy là màu hồng của vĩnh cửu phục sinh hay là màu tang trắng biệt li? Nghe tiếng gõ cửa. Lại có người đến gặp. Chàng sợ những tiếng gõ cửa bất thình lình. Từ sáng đến giờ chàng vẫn chưa được một chút thảnh thơi. Tâm hồn chàng rã rời. Hình ảnh Th. Trâm ra đi quá đột ngột. Những biến cố, những nhu cầu bất ngờ đến với chàng không bao giờ báo trước.
Nỗi đau khổ nhiều khi làm người ta gần Chúa nhưng cũng lắm khi đưa con người đến thất vọng, oán trách lòng nhân từ của Ngài. Người đàn bà đang nói chuyện với chàng chiều nay thuộc trường hợp thứ hai. Chàng ngồi nghe mỏi mệt. Khó khăn của bà cần có người thông cảm, nhưng còn nỗi đau của chàng? Ai là người chia sẻ? Cũng mang thân phận con người nhưng Chúa chẳng cho chàng đặc quyền khỏi cảm lạnh của mùa đông, khỏi cay mắt khi bụi đường vương khói. Chàng đã đủ nỗi buồn, đã đủ gánh nặng trên vai. Gió mùa hạ oi bức đi về uể oải trên thềm sân lát gạch. Lớp trần nhà bằng ván mỏng không đủ cản nóng. Trán chàng rịn mồ hôi.
Khuoân mặt rám đen vì lam lũ làm cho nỗi tâm tư của bà càng đổ nặng xuống hồn người nghe. Trên tường, chiếc đồng hồ lạnh lùng buông những tiếng cuối ngày. Còn nửa tiếng nữa đến giờ giải tội. Chàng ngao ngán. Trong hồn chàng có những tiếng thở dài trĩu nặng. Chàng bị bịt kín bằng những công việc không tên tuổi nhưng lại vô cùng hệ trọng. Chàng đã đoan hứa từ khi chưa là linh mục, cử hành bí tích là ân sủng của Chúa ban cho đời chàng. Chàng đã luôn luôn nhủ mình, gìn giữ lời đoan hứa ấy. Nhưng chiều nay, ơn sủng trở thành gánh nặng chán chường. Nghĩ tới giờ phải thi hành nghĩa vụ, chàng thấy rã rời. Chàng chỉ muốn một giấc ngủ bình yên, muốn một mình, không muốn gặp một ai.
Có thể nỗi mệt làm chàng bực dọc với người đàn bà. Vì bà đã lấy mất thời gian mà đáng lẽ chàng được nghỉ ngơi. Người đàn bà sợ sệt trước vẻ cau có của chàng. Một con chiên đã đến với chàng để tìm nỗi ủi an, giờ đây khúm núm vì sợ, trên khuôn mặt ấy như dâng lên nỗi buồn của thập tự ngàn năm trước đây khi bị chối từ. Hối hận vì những hành động vụng dại của mình, chàng cảm thấy nhỏ nhen khi tự so sánh như một người làm công kiếm tìm tiền lương xứng đáng. Chàng thấy tầm thường quá khi muốn người khác biết rằng chàng đang hi sinh cho họ thật nhiều. Giơ tay soa mặt, chàng dâng một lời nguyện âm thầm:
- Xin Cha tha cho con vì những so sánh nhỏ nhen, những lười biếng ích kỉ. Xin cho con thêm nghị lực để con tiếp tục đi. Xin cho con thên kiên nhẫn để chịu đựng. Hãy giúp con quên mình hơn nữa. Xin hãy ở bên cạnh con luôn, Cha ơi.
Ðêm về, vũ trụ chìm vào im lặng. Cỏ cây đã ngái ngủ, đất trời bình thản đi vào hôn mê. Riêng lòng chàng bừng sáng, bóng đêm không thể dập tắt được, những đốm sáng không thể bình thản đi xuôi theo lịch trình của thời gian. Chính những lúc đêm về, những lúc vũ trụ lặng lờ lại là lúc tâm tư con người thức giấc, sống động, đòi hỏi giáp mặt, tìm kiếm câu trả lời. Chàng ngồi đó hình dung lại nỗi đau khổ trên khuôn mặt người đàn bà hồi chiều, thương về với kỉ niệm của Trâm, nhớ tới hình bóng gã đàn ông lạ mặt. Mệt quá rồi, chàng muốn quên tất cả. Nhưng chưa thể quên được những gian nan thì những níu kéo trách nhiệm khác lại đẩy xô chàng ngã tới: Ngày mai, lễ kính thánh Phêrô. Chàng vẫn chưa soạn bài giảng. Nghĩ tới đó hồn chàng se lại vì một gánh nặng khác ùa tới. Tâm hồn ứa đọng mây đen nhưng mưa mệt mỏi vẫn hay về.
Vốc nước lạnh xoa mặt giúp chàng tỉnh táo. Gió đêm về đã mát hơn hồi chiều. Bụi trúc rì rào với những cánh đom đóm giăng mắc đó đây. Hít một hơi dài, gió lạnh thấm vào lồng ngực, đuổi bớt những tái tê, ngại ngùng. Bầu trời lồng lộng làm đầu óc chàng đỡ căng thẳng. Vị linh mục xin Chúa giúp chàng thêm trong những ngày dầy đặc mưa lạnh phủ xuống hồn:
- Xin Cha đỡ nâng con. Xin Cha cho con thêm nghị lực. Con mệt mỏi lắm nhưng con sẽ thức theo Cha.
Chàng nghĩ tới Chúa Kitô cũng đã mệt mỏi trong vườn Giệtsimani. Lời mệt mỏi Chúa hỏi kẻ theo Ngài: "Con không thức với Cha được một giờ sao?" Câu hỏi ấy như đang nói với chàng. Hình ảnh đó cho chàng thêm nghị lực:
-Vâng, lậy Cha, con sẽ thức với Cha. Con sẽ đốt cháy ngọn nến, ngọn nến cha đã thắp trong tâm hồn con. Con sẽ cố gắng đốt cháy cho đến giọt sáp sau cùng. Con sẽ vất vả với Cha. Xin ban thêm sức mạnh cho con.
Lời nguyện giúp tâm hồn chàng bình thản hơn, mạnh mẽ hơn. Trong tập soạn bài giảng cho ngày mai, chàng ghi những đề tài có thể nói về Phêrô:
- * Phêrô chối Thầy, ăn năn, rồi trung thành trọn đời lí tưởng.
* Phêrô muốn bảo vệ Thầy bằng sức mạnh trần gian. Ông đã dùng gươm để chiến đấu (Mt. 26:51-54).
* Phêrô nhẩy xuống biển vì muốn đến với Thầy, nhưng thấy mình đang đi trên nước thì thiếu niềm tin. Tức khắc, ông chìm xuống (Mt. 14:22-23).
* Phêrô bị Thầy mắng: "Xéo đi Satan, ngươi là cớ vấp phạm cho ta. Ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa mà là ý tưởng của loài người" (Mt. 16:21-23).
Những ý tưởng đến trong lúc đọc đoạn Thánh Kinh về Chúa hiện ra với các môn đệ, và thái độ của Phêrô đã cho chàng nhiều cảm hứng để cầu nguyện, viết bài giảng. Chàng cặm cụi viết. Ðêm tiếp tục vào sâu trong thinh lặng. Gã đàn ông lạ mặt lại đứng nhìn linh mục, hắn đứng xa xa ngoài ngõ theo dõi. Nhà xứ cũng chìm trong bóng đen, chỉ còn ngọn đèn trên bàn viết cửa sổ. Hắn nhìn rõ linh mục hí hoáy viết, thỉnh thoảng lại đăm chiêu suy nghĩ.
Lúc chàng ngưng viết, đồng hồ ngoài phòng khách thong thả buông mười một tiếng. Dù suốt ngày không được nghỉ ngơi, nhưng bây giờ chàng không thấy quá mệt như hồi chiều, bài giảng đã soạn xong, nhất là ý tưởng và những đoạn Thánh Kinh trong bài giảng đã cho chàng một sinh khí mới, một cảm hứng dạt dào. Một miềm vui khác làm phần thưởng tự nhiên cho chàng là chàng đã thắng được cơn lười. Chàng biết, giữa những xô bồ nhộn nhịp với công việc và thời gian yên tĩnh để lắng đọng hồn mình với Lời Chúa không phải là việc đơn thuần, dễ dàng. Chính vì thế, đã bao lần chàng tái xác nhận với lòng mình, chàng đã đoan hứa cố gắng trung thành cầu nguyện và chuẩn bị trang nghiêm khi giảng Lời Chúa. Ðó phải là tâm tư nguyện cầu của tâm hồn, là dấu chỉ của con tim tha thiết mang Lời Chúa cho giáo dân. Linh mục gấp tập bài giảng, nhìn qua khung cửa lên bầu trời tối mênh mông, chàng thấy tâm hồn bình an như một nỗi vui kín đáo, êm đềm không thể gọi tên được.
Linh mục ngồi dựa lưng vào thành ghế. Những biến cố dồn dập của một ngày chưa nguôi ngoai hẳn nhưng đã có những yên tĩnh nhè nhẹ đi về. Ngoài ngõ, gã lạ mặt vẫn thản nhiên đợi chờ. Khoanh tay trước ngực. Linh mục còn một phân vân sau cùng, trời đã ngả về nửa đêm nhưng bàn thờ chưa trang hoàng gì cả, dầu sao thì đây cũng là ngày lễ đặc biệt, kính vị thủ lãnh của Giáo Hội, kẻ đứng đầu nhóm Mười Hai, mà bây giờ chàng là hiện thân. Chàng muốn đi ngủ, ngẫm nghĩ một chút, linh mục cúi tìm đôi dép, đi ra phía cửa, lên nhà thờ.
Ðêm rì theo từng nhịp gió cuốn. Trời mênh mông. Sao lấp lánh như những ngọn nến đang cháy ở rất xa. Chàng nhìn về cuối xóm, mọi nhà đã tắt đèn. Tất cả sinh hoạt đã hoàn toàn ngưng đọng, chìm vào đêm tịch mịch. Mọi người đang say ngủ. Giáo dân của chàng đó. Vị linh mục trẻ lại nhìn dọc về cuối xóm, như một bà mẹ nhìn đứa con đang ngủ ngon. Chàng thầm cầu nguyện cho con chiên của chàng được một đêm bằng yên, không có pháo kích, đạn nổ, không có bóng đêm của Satan vây khốn.
Một mình cố bưng chậu cảnh ở vườn nhà xứ lên nhà thờ. Bê đến chậu thứ ba thì trán chàng rịn mồ hôi. Nhìn bốn chậu cảnh trên gian cung thánh, chàng hài lòng. Nhờ những chậu cảnh, bàn thờ có vẻ long trong hẳn lên. Linh mục cặm cụi lau lại tất cả sáu cây chân nến đồng. Những ngọn nến mới trắng tinh, đứng uy nghiêm, trang trọng. Màu đỏ thẫm của khăn nhung bàn thờ, với màu vàng óng của chân nến đồng mới lau, màu xanh mượt của hai cây dừa nước và hai bụi trúc làm gian cung thánh rực rỡ. Chàng đứng ngắm nghía, hoàn toàn mãn nguyện. Tượng thập giá trên cao cũng như hài lòng với chàng:
- Con là con Ta yêu dấu.
Trong hồn chàng, lời nói của thập giá như mùa xuân nhẹ nhàng đậu trên nhánh lá hạnh phúc non mơ. Ngả qua mười hai giờ đêm, chàng cúi đầu chào Chúa trước khi về ngủ. Bước ra cửa phía sau bàn thờ. Có tiếng gõ trên nền xi măng. Nghe như tiếng chân người đang đi lên từ cuối nhà thờ. Tiếng giầy gỗ vang vang, rõ mồn một. Trong ánh sáng mờ nhạt, linh mục nheo mắt nhìn nhưng không rõ. Khi bóng người đến gần hơn thì chàng rùng mình, như có làn hơi lạnh ma quái rợn lên da thịt: Chính gã đàn ông tối qua!
Linh mục đứng bất động, ngó bóng đen tiến tới. Sự kiện xẩy ra bất ngờ, ngoài trí dự đoán, lúng túng, chàng không biết phải phản ứng thế nào. Không bình tĩnh, nhưng cũng không hẳn là sợ hãi. Cái làm chàng bối rối vẫn là câu hỏi từ tối qua: Người hay ma quỷ? Là linh mục, một kẻ đã được Chúa trao quyền để đối diện với sức mạnh của hỏa ngục, nhưng chưa một lần trong đời chàng giáp mặt Satan. Ðã có đôi lần chàng mơ tưởng điều đó. Nhưng chàng nghĩ điều đó không bao giờ xẩy ra. Gã đàn ông bước gần tới bậc thềm lên cung thánh thì dừng lại. Tay phải hắn để ở đàng sau như giấu một vật gì. Từ chỗ gã đứng tới bàn thờ chỉ còn một khoảng ngắn. Linh mục lấy bình tĩnh lên tiếng hỏi:
- Ông có việc muốn gặp tôi?
- Ðúng thế!
- Xin mời ông vào nhà xứ.
- Ở đây! Ngay đây!
Lối đáp cộc lốc, lạ lùng, làm linh mục khó hiểu về gã lạ mặt. Chàng kiên nhẫn tiếp chuyện:
- Ông có việc chi?
Không trả lời, bỗng nhiên hắn cười sặc sụa. Tiếng cười man dại làm linh mục rùng mình. Chàng cố gắng bằng một giọng thản nhiên hơn hỏi kẻ lạ mặt:
- Ông là ai?
- Ta là đấng mà ta là!
Gã đã ngạo mạn lấy lời của Yahweh trả lời Maisen khi ông hỏi tên Ngài. Giọng nói của gã lạ mặt giờ nghe khác thường. Linh mục cảm thấy có điều gì bất trắc sắp xẩy đến. Chàng nói với kẻ lạ mặt bằng giọng cứng rắn hơn:
- Mời ông ra khỏi nơi đây!
- Ðây là nhà của ta!
- Xin lỗi ông, đây là nơi thờ phượng tôn nghiêm, một lần nữa, tôi mời ông ra khỏi nơi đây!
- Ta đã ở đây trước khi ngươi tới. Ta biết từng ngõ ngách, từng phân ghế nhà thờ này. Ta biết từng ý nghĩ của mọi kẻ tới đây!
Chàng biết mình đang gặp khó khăn mà không biết rồi kết quả sẽ ra sao. Gã đàn ông rất bình tĩnh, tự tin. Linh mục vừa bực tức vừa nao núng, linh cảm cho chàng thêm sự thật, đối thủ trước mặt chàng không phải là đối thủ tầm thường. Linh mục thấy rằng gã không phải là người. Chàng trả lời gã lạ mặt:
- Tôi không hiểu ông nói gì!
- Ðúng! ngươi không hiểu vì ngươi ngu xuẩn! Ta ở bên ngươi mà ngươi không thấy. Ta bẻ gẫy từng lời nguyện của ngươi mà ngươi không hay. Ðã nhiều lần ngươi lao đao trong trò chơi của ta. Ðã nhiều lúc ngươi tìm theo ta, thờ lậy ta mà ngươi không rõ. Ngươi ra khỏi lòng mẹ, đã có ta trong cõi lòng ngươi. Ta là người có mặt ở đền thờ này nhiều hơn ngươi, ngươi có biết không...
Gã lạ mặt còn đang say sưa với ý tưởng riêng tư của gã thì linh mục cất lời:
- Ngươi đến đây làm gì?
- Ta đến để biến nơi đây thành nơi ca ngợi chính mình ngươi. Ðể biến nơi đây thành nơi khoe khoang, ngạo mạn. Ðể người đàn bà giàu có kiêu hãnh vì thập giá bằng vàng trên vùng ngực, cho người góa bụa nghen tương, thèm muốn tham lam. Ta đến để biến nơi đây thành nơi hò hẹn, gặp gỡ vụng về. Ta đến để gieo thất vọng đi trên hi vọng. Ðể vẩy bóng tối vào ánh sáng. Ðể cản ngăn, để bảo lũ tín đồ của ngươi ăn cắp lúa ngoài đồng của kẻ bần cùng đem về dâng hiến Yahweh còn vàng bạc của chúng thì chôn dưới đất sâu.
Gã lạ mặt cất tiếng cười rừng rú vang dội cả nhà thờ. Ðêm tĩnh mịch. Tiếng cười của hắn làm chàng rối bời. Người đàn ông lạ mặt nhìn chằm chằm vào mặt linh mục. Linh mục sợ hãi khi đối diện đôi mắt ma quái của gã. Mặt hắn dập dờn xanh lẹt, mắt không có lòng trắng, đỏ đục ngàu. Linh mục vừa sợ nhưng nỗi căm tức bừng bừng. Chàng chỉ tay vào mặt hắn quát lớn:
- Satan! cút khỏi nơi đây!
- Ha! ha!
Gã đàn ông lại cười man rợ. Rồi bóng đen bùng dậy di động. Mặt hắn tự nhiên như mớ da bị co rúm lại. Khi hắn giơ thanh gỗ dài mà từ nẫy đến giờ vấn giấu ở sau lưng thì hắn hiện nguyên hình là tên quỷ đen thui. Vị linh mục hét lớn:
- Satan! cút khỏi nơi đây!
Hắn trợn mắt như hai quả cau hừng hực lửa đỏ. Linh mục lùi lại mấy bước. Chàng rút cây thánh giá gỗ to bằng cổ tay mà cậu giúp lễ vẫn giơ cao, vác đi trong các thánh lễ chủ nhật khi vị chủ tế từ cuối nhà thờ tiến lên. Tên quỷ cũng lùi lại, hai tay cầm chặt thanh gỗ. Trận chiến bắt đầu.
Thập giá ở trên cao nhìn xuống. Ngay trước giữa bàn thờ, trên gian cung thánh, vị linh mục và tên quỷ giao tranh ác nghiệt. Ðêm âm thầm trôi. Khi linh mục vừa vội đứng dậy sau cú ngã chúi nhủi thì gã ném chén lễ về phía linh mục. Chén lễ đập vào tường, gẫy đôi, lăn lóc trên lối đi. Linh mục căm tức, với tất cả sức mạnh, chàng nhẩy tới đâm thẳng cây thánh giá vào mặt tên quỷ. Hắn ngồi thụp xuống tránh, đồng thời đưa cây gỗ lên đỡ. Ðâm hụt, cây thánh giá lao vào bờ tường làm gẫy cánh tay bên phải. Tượng chịu nạn bị bể văng khắp nền nhà. Cú lao quá mạnh làm tay linh mục ê ẩm. Tên quỷ lợi dụng lúc chàng đang hụt hẫng vì cú đâm hụt, nhẩy qua bên cạnh, giáng thẳng khúc gỗ xuống đầu. Linh mục lùi lại nhưng quá trễ, những mũi đinh nhọn ở đầu cây gỗ xẻ toạc một mảng áo ở vai làm rịn máu. Chàng vác cây thánh giá chạy. Tên quỷ cười vang. Hắn đuổi theo bén gót. Linh mục chạy vòng qua dẫy ghế. Hắn chặn đầu.
Cuộc chiến tiếp tục, linh mục đuối sức dần. Chàng bắt đầu lo sợ, nghĩ rằng mình có thể bị giết chết đêm nay. Mồ hôi trên trán chảy nhễ nhãi. Linh mục đứng thủ thế, tên quỷ cũng dưỡng sức. Hai đối thủ gờm nhau. Trong lúc tạm nghỉ, chàng mới thấy không phải chỉ có vết thương ở vai mà hình như toàn thân đều ê ẩm. Ống chân trái, ngay dưới đầu gối tê buốt như bị gẫy. Chàng lao đao, đứng không vững. Bước chân chập chững làm chàng càng lo sợ hơn. Hai tay vẫn nắm chặt thập giá. Liều lĩnh, bất chấp những vết thương đang nhức, chàng nhẩy lên thành ghế, lao về phía tên quỷ. Vì ở trên cao nên tên quỷ ngỡ chàng sẽ giáng cây thập giá xuống, không ngờ chàng đánh xước từ dưới lên như kẻ chơi golf quật trái banh. Tên quỷ không kịp chuyển hướng đề phòng, bị đập một nhát trời giáng xước cạnh sườn đi lên. Hắn ngã quỵ, hai tay vội ôm cây gỗ. Linh mục lợi dụng thời cơ, chạy theo đập luôn hai cái nữa, nhưng tên quỷ cuộn tròn như trái banh lăn về phía cuối bàn thờ. Mỗi cái đập hụt làm tay chàng thêm đau nhức. Khi linh mục đuổi theo tới bàn thờ thì tên quỷ nhẩy phắt dậy, đứng trên bàn thờ nhìn xuống. Cảnh tượng xúc phạm ấy làm chàng phẫn nộ cùng cực. Nhưng chàng cũng đã mệt lắm rồi không còn sức đuổi theo để bồi thêm cú đánh nữa. Tên quỷ cũng lao đao nhưng xem ra còn giai sức.
Nhà thờ tối đen, chỉ có gian cung thánh sáng mờ mờ do ngọn đèn ở phía nhà chầu. Ðêm heo hút. Linh mục thầm mong chóng tới sáng, nhưng bóng tối cứ mênh mông, dầy đặc. Nhà thờ cứ vắng lặng, không có dấu hiệu của một sự tiếp cứu nào. Tên quỷ chìa khúc gỗ trước mặt nhử qua nhử lại để lừa gạt chàng, không cho chàng biết hắn sẽ đánh về phía nào. Chàng cũng nghiêng người theo chiều đưa đẩy qua lại của khúc gỗ trong tay tên quỷ. Bất chợt chàng nhẩy về phía trái. Tên quỷ nhẩy theo. Chàng quay tròn, tên quỷ ngỡ chàng nhẩy qua bên phải, cũng nhẩy theo, lấy sức lanh lẹn, linh mục quay ngược lại, phạt ngang cây thánh giá vào mang tai tên quỷ. Không đỡ kịp, hắn lãnh trọn một thánh giá gỗ. Tên quỷ bu đầu ngã xiêu vẹo chạy về phía tòa giải tội. Nhưng chỉ mấy giây sau hắn lấy lại được sức mạnh ngay. Ðiếu ấy làm linh mục lo âu. Ðã nhiều lần tên quỷ trúng đòn, nhưng chỉ trong giây lát là hắn có thể lại sức dễ dàng, dường như hắn sẽ không bao giờ mỏi mệt. Nghĩ mình không thể thắng được. So sánh thì linh mục đã bị đòn ít hơn hắn. Chàng chỉ có vết thương ở vai và ống chân là nặng hơn cả. Còn tên quỷ, chàng nhớ là đã bốn lần chàng đập hẳn cây thánh giá vào mặt hắn, nhưng hắn không hề chảy máu. Hắn chỉ lao đao vài giây mà thôi. Ðiều đó cho chàng nghi ngờ chàng sẽ chết vì đuối sức. Hơn ba tiếng đồng hồ giao tranh, mỗi lúc chàng càng thấy sức lực mình mất mát. Tên quỷ xem như không hề nao núng, dư thừa kiên nhẫn. Ðã đánh như thế mà hắn không hề mang thương tích thì làm sao hạ được. Linh mục nghĩ tới việc phải giữ sức để cầm cự tới sáng, khi giáo dân của chàng tới dự lễ, chàng sẽ có tiếp cứu. Tên quỷ đọc được ý nghĩ ấy trong đầu linh mục nên nhất quyết quần thảo cho chàng mệt nhừ mà quỵ ngã. Hắn bắt đầu tấn công tới tấp không cho chàng có giờ suy tính kế hoạch. Tên quỷ hét vang, chạy đến đâm khúc gậy nhọn vào mặt chàng, nhưng đấy chỉ là một cú lừa, khi chàng vừa nhún người né qua bên phải thì hắn múa tít cây gậy làm linh mục hoa mắt không biết hắn sẽ đánh từ phía nào. Tên quỷ nhẩy về phía sau rồi lại tiến lên phía trước. Cái thế đánh hỗn mang ấy làm chàng luống cuống, bất chợt, bất chợt, đang từ những đường lượn quanh co, uyển chuyển, hắn giáng mạnh một cú, hai đầu cây thánh giá gẫy đôi. Chàng rụng rời sợ hãi. Mồ hôi chảy đầm đìa. Linh mục thấy cõi chết gần kề. Bất chợt, chàng nhìn lên tượng chịu nạn, nhớ đến Chúa trên thập giá. Chàng muốn cầu cứu sự trợ giúp của thần thánh. Nhưng cùng một lúc chàng lại có ý nghĩ nếu cất tiếng kêu gọi là gián tiếp bảo cho tên quỷ rằng chàng đã kiệt sức không thể cầm cự được nữa. Ðiều ấy có thể làm tên quỷ dốc hết sức ra hạ chàng. Ý nghĩ đó làm chàng không thể có một quyết định sáng suốt. Linh mục lại tiếp tục chiến đấu. Trước bàn thờ, trận chiến càng trở nên tàn bạo vào những phút chót. Cây thánh giá đã gẫy, linh mục không còn gì chống cự. Mặt chàng tái xanh. Trận chiến khốc liệt. Tên quỷ ra sức tấn công.
Linh mục lấy sức còn lại chống đỡ. Ðôi lúc cũng dữ dội làm tên quỷ lao đao. Nhưng những giây phút khốc liệt chẳng kéo dài được bao lâu. Linh mục quỵ ngã mấy lần. Chàng kiệt sức. Cây thánh giá đã gẫy, khí giới còn lại là khúc gỗ ngắn. Lần ngã sau cùng thì chàng như không còn thể dậy được nữa. Mồ hôi chảy nhễ nhại. Tay chân mỏi mệt rã rời. Linh mục lại ngước nhìn tượng chịu nạn. Tên quỷ biết rõ điều ấy. Hắn cầm bình hoa ném lên cây thập giá. Chiếc bình sành bể tan, rơi đầy mảnh vỡ trên bàn thờ. Chàng nhìn cảnh tượng đó, đau đớn xót xa. Nhưng chàng không thể tiếp tục giao chiến được nữa. Mồ hôi cứ từng dòng, chàng nhìn lên tượng Chúa như một níu kéo sau cùng chen lẫn nỗi âu lo thất vọng. Trong lúc bi đát nhất như thăm thẳm mịt mùng thì chàng nghe có tiếng người nói:
- Nếu có Ðức Tin bằng hạt cải, ngươi sẽ rời được núi.
Lời nói lóe lên như tia lửa trong lúc chàng không còn lối thoát. Linh mục nhủ thầm: Ðức Tin! Ðức Tin! Chàng lấy hết sức đứng chững chạc đối diện tên quỷ, phẫn nộ chỉ tay vào mặt hắn:
- Ta sẽ chiến thắng ngươi bằng Ðức Tin!
Tên quỷ cười ngạo nghễ, nhưng tiếng cười không trọn vẹn. Hắn lùi lại, mắt rực đỏ tức giận. Chàng tiến về phía tên quỷ, chỉ tay vào mặt hắn nói lần nữa:
- Ta sẽ chiến thắng ngươi bằng Ðức Tin!
Tên quỷ ngó chàng căm phẫn. Hắn nhẩy chồm tới. Linh mục thấy đầu cây gậy thấp thoáng mũi nhọn. Chàng xiêu vẹo lùi về phía sau, hai tay cầm chặt khúc gỗ. Trận chiến lại tiếp tục. Vang lên, là tiếng vải bàn thờ bị xé rách, những bước chân đuổi nhau huỳnh huỵch chạy chung quanh bàn thờ. Trong khi lùi, linh mục vấp vào chậu cảnh ngã lộn về phía sau. Khi vừa tìm được thế thăng bằng thì tên quỷ đã tới nơi. Hắn đằng đằng sát khí, linh mục không còn lối thoát. Tên quỷ giơ chiếc gậy lên cao. Trước sự chết, chàng hốt hoảng kêu lớn:
- Cha ơi, xin cứu con!
Chàng nhắm nghiền mắt không dám nhìn chiếc gậy đang giáng xuống đầu, miệng không ngớt tiếng kêu: Lậy Cha, xin cứu con! Lạ thay, khi chàng mở mắt thì tên quỷ vẫn đứng đó hằm hằm với chiếc gậy trong tay, hắn xa đó vài bước chân. Linh mục thấy hai bờ vai rã rời, không cầm nổi khúc thánh giá gẫy. Thất vọng về mờ mịt, không còn sức đương đầu nỗi nữa, nhìn lên thập giá chàng lại van xin:
- Xin cha đến trợ giúp con, cứu con.
Tên quỷ đứng nhìn. Ánh sáng mờ chiếu lấp loáng trên những mũi đinh nhọn ở đầu cây gậy làm chàng rùng mình. Tên quỷ đi lại. Chàng hốt hoảng lùi dần về phía sau. Hắn càng tiến chàng càng lùi. Mỗi lúc tên quỷ càng trở nên hung hãn. Khi hắn đến nơi thì linh mục đụng vào bờ tường, không còn lối thoát. Chàng lấy hết sức quật ngang cây gậy xiên từ dưới lên. Tên quỷ vô tâm tự đắc, hắn không ngờ trong cái dáng điệu kiệt sức ấy vẫn còn những năng lực sau cùng. Linh mục đã đập một nhát chát chúa vào cánh tay trái hắn. Tên quỷ rú lên chạy ra giữa lối đi. Linh mục tiếp tục cầm cự, Tên quỷ căm tức tột đỉnh, hắn không ngờ vấn đề lại khó khăn đến thế. Những tưởng chỉ cần một nhát gậy bọc sắt giáng xuống đầu là có máu đổ, nhưng đã suốt một đêm quần thảo mà vẫn chưa đạt được ý mong. Giờ đây hắn lại phải đề phòng địch thủ kĩ hơn nữa, không phải vì sức lực của địch thủ, nhưng vì lời kêu cầu của hắn. Mỗi lần linh mục nhìn lên thập giá cầu nguyện thì tên quỷ như không còn đủ can đảm tiến tới. Hắn đã nhận ra yếu điểm của mình nên nhất quyết dốc toàn lực để thanh toán địch thủ nhanh bao nhiêu có thể, không cho linh mục cầu nguyện. Nhìn dáng đi của linh mục, hắn biết chàng đã kiệt sức lắm rồi. Tên quỷ chạy xốc tới, hét vang nhà thờ. Linh mục cuống quýt. Hắn đâm thẳng cây nhọn vào mặt linh mục. Không kịp tránh né, tên quỷ đâm nhanh như một ánh chớp. Linh mục thấy như mặt mình bị nát bấy. Chàng rụng rời hét khi mũi nhọn tới sát mặt: Cứu con! Chúa ơi! Tất cả xẩy ra trong chớp nhoáng. Chàng ôm mặt kêu: Cứu con! Từ sâu thẳm trong trái tim lại hối thúc chàng: Ðức Tin! Chàng ngã xuống nền nhà thờ, tay bu mặt như đầm đìa máu sợ hãi:
- Xin cứu con!
Mỗi lần chàng kêu như thế tên quỷ vô cùng giận dữ. Hắn đập cây gậy vào bàn thờ rầm rầm. Mắt long lên sòng sọc, máu ứ ngập tim. Nếu linh mục chỉ chậm kêu mấy tiếng đó vài giây, hắn đã đâm nát bấy mặt chàng. Khi linh mục kêu cứu thì tên quỷ lấy hết sức đâm, nhưng lạ lùng, như có tấm thép vô hình chặn lại dù rằng đầu mũi cây nhọn đã đến giáp da mặt linh mục rồi. Linh mục úp mặt kêu van. Hắn đá văng khúc cây thánh giá còn lại trong tay chàng. Tên quỷ trở lại bàn thờ nhìn tượng Chúa căm tức, hắn đập xuống bàn thờ như muốn phá tung. Linh mục nghe tiếng động dữ dội, ngẩng mặt, vuốt mắt nhìn, thấy tên quỷ đang đập bàn thờ, bấy giờ chàng mới hoàn hồn sao thấy lạ lùng là mình vẫn sống. Rõ ràng tên quỷ đã đâm cây gậy vào mặt chàng cơ mà? Chợt nhớ đến khúc gỗ thánh giá, nhìn hai tay trống trơn, sợ hãi, chàng vội cố chạy nhặt lại. Nhưng tên quỷ bổ tới. Vừa cúi nhặt khúc thánh giá thì tên quỷ đã tới nơi. Linh mục cuống quýt chui vào gầm bàn thờ. Tên quỷ khua chiếc gậy nhọn, những mũi đinh chìa tua tủa. Chàng lủi qua bên phía bàn thờ, tìm đường chạy. Tên quỷ đuổi theo. Bây giờ chàng không còn khí giới để cầm cự. Con đường giải cứu duy nhất là chạy. Hai đối thủ đuổi nhau vòng qua các dẫy ghế của giáo dân. Nhờ những hàng ghế dài, dù chàng yếu sức nhưng không dễ gì tên quỷ bắt được.
Nếu linh mục cứ tiếp tục men theo các hàng ghế thì khó lòng tên quỷ có thể tấn công. Nhưng chàng đã tính sai chiến thuật. Chạy vòng vòng gần tới gian cung thánh, chàng chợt nghĩ tới cửa phòng thánh còn mở. Linh mục tìm cách trốn khỏi nhà thờ, nhưng không ngờ tên quỷ nhanh như cắt, khi chàng vừa trờ tới cửa thì hắn đã tới nơi. Tên quỷ bực tức, vứt cây gậy xuống nền nhà, nắm tay đấm thẳng vào mặt linh mục. Linh mục lãnh trọn cú đấm tàn bạo vào ngay khóe mắt. Chàng ngã lộn người. Vừa bò được ra khoảng giữa bàn thờ thì tên quỷ đã đứng trước mặt. Hai tay chống cạnh sườn. Hắn giẵm chân lên ngực linh mục cười chiến thắng:
- Hỡi tên linh mục cứng đầu! Ngươi đã biết quyền lực của ta chưa?
Linh mục như gã tù binh thua trận, cam chịu xỉ nhục. Tên quỷ dẵm mạnh chân hơn nữa, đầu linh mục đã sát đất:
- Hỡi tên linh mục, hãy trao lại đàn chiên cho ta!
Nói xong, hắn giang tay cười vang nhà thờ. Linh mục thấy đau đớn, nhức buốt tận cùng của một tàn phá tận diệt. Mồ hôi mặn như nước mắt chảy lẫn vào nhau. Bao nhiêu xây đắp để rồi giờ đây khi đối diện chàng đã quỵ ngã dưới sức mạnh Satan. Chàng nghĩ tới nỗi ô nhục của bày chiên khi thấy chủ mình không còn sức chống lại sói rừng. Linh mục khóc. Nỗi uất nghẹn của một kẻ ngày ngày, sáng sáng giảng lời thiên đàng, bây giờ, khi phải giáp mặt thật sự, đã thua cuộc làm máu như sôi lên vì tức giận. Chàng cắn môi đến rướm máu, lấy tất cả sức còn lại chồm lên đấm mạnh vào mặt tên quỷ đang say men chiến thắng. Tên quỷ nhẩy tránh. Dù lấy hết sức nhưng chàng đã mệt lả rồi chẳng ăn thua gì với sự lanh lẹn của hắn. Tên quỷ bực mình chạy lấy cây gậy đã vứt lúc nãy. Trong nỗi cay đắng vô bờ thì tiếng hối thúc nói với chàng:
- Vứt gậy đi. Xuôi tay. Hãy quỳ xuống nhìn vào Cha.
Tiếng nói mãnh liệt quá làm chàng trong cơn bàng hoàng, vội quỳ theo lệnh truyền vô âm thanh. Tên quỷ tự nhiên lúng túng hai tay run lên như phải giao chiến với một quyền lực khác. Linh mục lại nghe tiếng nói nhiệm mầu:
Vứt mọi khí giới đi, hãy đến với quyền lực Satan bằng tay không. Ðêm nay là đêm đức tin chứ không phải là đêm sức mạnh trần thế. Con không nhớ khi xưa các môn đệ của Cha đã không trừ nổi quỷ vương, và Cha đã dạy họ rằng chỉ có Ðức Tin và Cầu nguyện mới đánh bại được quyền lực của bóng tối hay sao? Ðêm nay là đêm thử thách niềm tin của con. Vứt khí giới đi. Chẳng có gì bảo vệ được con ngoài niềm tin đặt nơi Cha. Cha nói cho con biết, điều ấy không dễ. Nhưng con phải nhớ rằng Cha ở với con mọi ngày. Hãy tin và hãy để Cha chiến đấu...
Lời nói nhiệm mầu có sức mạnh lạ lùng, như nguồn suối thần lực chảy về từ biển cả. Cánh tay vững hơn, linh mục như được hồi sức sau cơn bệnh dài. Tâm trí trở nên minh mẫn. Biết có kẻ trợ giúp sau lưng, linh mục không nao núng. Chàng quên sự chết. Tâm trí chỉ còn chiến thắng, chàng nói vào mặt tên quỷ.
- Hỡi Satan, cút khỏi nơi đây. Kẻ sinh bởi một Người Nữ sẽ đạp dập đầu rắn độc và miêu duệ mày!
Tên quỷ tức điên loạn. Hắn lồng lộn nhẩy múa, quơ chân đèn bằng đồng ném vào đầu linh mục. Ðang quỳ cầu nguyện, nhìn thấy tên quỷ giơ cao chân đèn, chàng đứng phắt dậy tránh. Chiếc chân đèn bay vút qua đầu đập vào tường làm rung rinh hàng cửa sổ gỗ. Linh mục cũng vội nắm lấy chân đèn khác. Cuộc chiến lại tiếp tục diễn ra. Khi chàng định ném chân đèn vào tên quỷ đang bận tìm cây gậy thì lời nói lúc nẫy lại vang vang.
- Hãy vứt khí giới. Ðêm nay là đêm Ðức Tin chứ không phải đêm sức mạnh trần thế!
Chàng vội buông cây đèn xuống đất, nhưng mắt không rời ngó về phía Satan. Tiếng nhiệm mầu có lúc như thôi thúc, có lúc gào thét, có lúc bực tức như muốn bỏ chàng mà đi. Cứ mỗi khi linh mục quỳ gối hướng về phía tượng chịu nạn thì tên quỷ không làm gì được, hắn như phải đương đầu với một quyền năng vượt tầm với. Linh mục cũng đã có kinh nghiệm đó nhưng khi tên quỷ đâm cây gậy vào mặt thì chàng lại không đủ can đảm quỳ yên cho tên quỷ đánh. Chàng lại giơ tay tránh. Lúc thấy tên quỷ nhào tới, chàng lại không đủ can đảm quỳ yên cầu nguyện, lại vùng dậy chiến đấu. Nhưng mỗi khi chàng bắt đầu giao chiến thì tên quỷ lại như vui mừng, cánh tay hắn căng đầy sức mạnh, và từ trời cao lại có tiếng gay gắt:
- Hỡi quân thiếu niềm tin! Hãy quỳ xuống! Hãy để Cha chiến đấu!
Chàng nghe rõ tiếng nói ấy và trong cuộc giao tranh từ nửa đêm đến giờ. Nhiều lần đã chứng tỏ cho chàng rằng mỗi khi chàng phó thác cho thập giá thì cây gậy nhọn của quỷ dữ như bão bùng đổ tới cũng chẳng hại chàng được. Nhưng cái bất hạnh và gian nan của chàng là khi thấy quỷ xông ào tới, chàng không đủ can đảm quỳ yên nhìn lên thập giá, chàng lại nhẩy lên tránh né, tiếp tục chống cự, để rồi trận chiến lại tiếp tục giao tranh.
Lần cuối cùng Satan đuổi linh mục chạy xuống cuối nhà thờ. Vừa chạy vừa thở, những hơi thở kiệt lực, chàng lai nghe tiếng nói từ trời cao:
Ðứng lại! Quỳ xuống nguyện cầu! Ðêm nay là đêm đức Tin chứ không phải đêm sức mạnh trần thế!
Dù nghe tiếng nói nhưng tên quỷ đang gầm thét sau lưng với cây gậy đập vào thành ghế rầm rầm làm chàng không còn lòng sức nào để dừng lại. Một bên là tiếng nói nhiệm mầu bảo chàng quỳ xuống, một bên là sợ hãi cây gậy của Satan xui chàng tiếp tục chạy để cứu mạng sống. Linh mục không sao xử trí nổi.
Một tiếng kêu thất thanh, Satan lao vút tới ném cây đèn đồng vào gáy linh mục. Giữa lúc chân đèn lao hụt văng vào thành ghế thì chuông trên tháp gỗ ngoài nhà thờ đổ vang. Tiếng chuông giòn giã, hối hả xé tan đêm đen cô tịch. Tiếng chuông dồn đập hân hoan chào đón ngày lễ kính thánh Phêrô. Nghe tiếng chuông, biết trời đã sáng, Satan căm phẫn đến nhặt cây chân đèn đồng quật xuống cánh tay quỳ của chiếc ghế dài làm bể một góc lớn. Hắn nhìn theo linh mục chửi rủa, thách đố:
- Ta sẽ gặp lại ngươi!
Cửa sổ vẫn đóng kín, nhưng hắn nhẩy qua đó, biến mất.
THÁNH LỄ KÍNH THÁNH PHÊRÔ
Linh mục cúi đầu nguyện sẽ:- Lạy Chúa toàn năng xin tẩy sạch tâm hồn và miệng lưỡi con, để con có thể công bố Phúc Âm của Chúa cho xứng đáng.
Chàng cất cao giọng xướng:
Bài trích Phúc Âm theo thánh Matthêu.
Rồi giơ cuốn sánh Thánh Kinh lên ngang tầm mắt. Trang trọng đọc:
Chiều đến, chỉ có một mình Ngài ở đó. Còn thuyền thì đã xa đất nhiều dặm, lắc lư với sóng, vì có gió ngược. Canh tư đêm tối. Ngài đến cùng họ đi trên biển. Môn đệ thấy Ngài đi trên biển thì cuống cuồng lên mà nói là ma. Và kinh hãi họ kêu lên. Lập tức Ðức Kitô lên tiếng mà nói với họ rằng: "Hãy vững lòng tin đừng sợ." Ðáp lại Phêrô nói với Ngài: "Lậy Ngài, nếu quả thật là Ngài thì hãy truyền cho tôi đi trên nước mà đến với Ngài." Ngài bảo: "Hãy đến." Và Phêrô bỏ thuyền đi trên nước mà đến với Ðức Giêsu. Thấy có gió ông phát sợ và bắt đầu chìm xuống biển, Ông kêu lên: "Lậy Ngài xin cứu tôi." Lập tức Ðức Kitô giang tay nắm lấy ông và bảo: "Quân yếu tin! Sao lại hoài nghi!" (Mt. 14:23-31).
Trên bục cao, linh mục nhìn xuống lòng nhà thờ. Mênh mông. Tất cả đang hướng về chỗ chàng đứng. Im lặng. Người người. Mọi cửa sổ đều mở tung. Ngoài trời, nắng lên ngợp xuống trần gian. Một buổi sáng đầy sức sống. Nắng dọi vào bàn thờ làm màu nhung đỏ rực huy hoàng. Màu vàng của cây nến đồng mới được lau bóng gặp ánh mặt trời lóe lên những tia sáng rực rỡ. Tất cả đã gọn gàng, thứ tự, khó mà nhận ra dấu vết của cuộc chiến dài suốt đêm vừa qua. Linh mục đặt cuốn Thánh Kinh xuống kệ sách, bắt đầu bài giảng:
Anh chị em thân mến,
Tin là gì? Có phải tin là chấp nhận một điều ta không thấy? Nếu thế thì phải chăng tin chỉ là thất bại của trí tuệ? Vì trí tuệ không đủ khả năng soi sáng vào vùng mù mịt đó để rồi trí tuệ phải chấp nhận điều vuột khỏi tầm nhìn thấy của mình.
Có những giới hạn mà khi ta muốn vượt khỏi thì ta không còn là ta nữa. Evà đã muốn vượt khỏi giới hạn của mình. Người đàn bà ấy đã chối từ giới hạn của trí tuệ nàng. Chính khi nàng muốn vượt qua cái giới hạn ấy thì nàng lại bị giới hạn hơn và chẳng còn là Evà đáng yêu của vườn địa đàng thủa mới tạo dựng.
Trí tuệ là đường hiểu biết. Khi hiểu biết đạt đến trọn hảo thì lúc đó là trí tuệ là Thiên Chúa mất rồi. Nguyện xin cho mình hiểu biết tất cả là lời nguyện lỗi phạm nhất.
Tin không phải là nhìn nhận một điều không có nhưng là nhìn nhận một điều có mà không thấy. Nhìn nhận một điều không có là dại dột bao nhiêu thì chối từ một điều có mà chỉ vì không nhìn thấy cũng là vụng về như thế. Hiện hữu đã ở đó thì tin hay không tin ta cũng không thay đổi được sự có mặt ấy. Một điều đã có thì dù chối từ, nó cũng vẫn tồn tại. Nếu nó có vắng bóng là chỉ vắng bóng với kẻ chối từ nó mà thôi. Như thế, chối từ một sự có mặt, một sự đang hiện hữu chỉ vì tôi không nhìn thấy là tôi nghèo nàn hóa trí tuệ của tôi. Chính lúc đó mới là sự thất bại của trí tuệ.
Nhìn nhận một điều có thật mà ta không thấy, không cắt nghĩa được là mở đường cho trí tuệ lần mò dần về với sự thật. Như thế, chấp nhận một điều vuột tầm mức của trí tuệ không phải là thất bại của trí tuệ mà là đem về sự sống, gợi thêm những chân trời khác cho trí tuệ suy nghĩ.
Nhưng tin vào Chúa Kitô còn là sự sống, một chân trời phong phú. Tin Chúa Kitô không chỉ là việc làm của trí tuệ nhưng là việc làm của con tim. Vì thế, tin Chúa Kitô đòi buộc toàn diện cuộc sống, tình yêu, đau khổ, ước mơ, yếu đuối, sáng tạo, lầm lẫn.
Phêrô đang bước trên nước mà đi. Nhưng khi ông thấy sóng nổi lên, gió đi tới. Ông hốt hoảng nghĩ tới sự sống của mình, ông lo âu muốn bảo vệ nó, và chính lúc ấy ông chìm xuống, ông mất sự sống. Như vậy, tin vào Chúa Kitô không có nghĩa là quên đi chính mình, nhưng là nhớ mình trong Ðức Kitô. Tôi chỉ lo âu khi biết không có bảo đảm. Lo âu là dấu hiệu của kẻ bơ vơ. Làm sao tôi có thể bơ vơ nếu tôi có Chúa. Hoang mang, âu lo là dấu hiệu của kẻ lạc lõng, côi cút. Tin Chúa là phó thác trọn vẹn, là chấp nhận cái mà trí tuệ không thể giải đáp. Và chính điểm này, gian nan của nhân loại nằm ở đó. Tôi xin kể cho anh chị em một câu chuyện:
Vào một đêm kia, Satan lấy hình một người đàn ông giao chiến với một linh mục. Hai người đánh nhau suốt đêm dài. Chúa nói với vị linh mục rằng hãy tin, hãy quỳ xuống cầu nguyện, để cho Chúa chiến đấu. Vì chỉ có thể chiến thắng được Satan bằng đức tin và lời cầu nguyện mà thôi. Vị linh mục đã cầu nguyện. Nhưng khi thấy Satan giơ tay đấm vào mặt mình thì linh mục đó lại giơ tay lên đỡ, rồi cuộc giao chiến lại tiếp tục. Chúa thấy thế hối thúc vị linh mục đặt trọn niềm tin vào Ngài, đứng yên đó, cứ để cho Satan đấm, cứ cầu nguyện. Nhưng linh mục chỉ cầu nguyện khi Satan còn ở xa xa. Lúc Satan đến gần thì vị linh mục lại thấp thỏm lo âu. Khi Satan giơ gậy đánh thì linh mục ấy sợ quá lại giơ tay đỡ, cứ nghĩ đến vết thương, cứ nghĩ đến sự sống của mình, linh mục không dám để Satan đến gần. Cũng như Phêrô hôm nay, thấy sóng gió nổi dậy, ông hốt hoảng cuống cuồng tìm cách cứu thân, ông đã chìm xuống.
Anh chị em thân mến,
Nói tin vào Chúa thì đơn giản. Nhưng khi niềm tin bị thử thách đến sự sống, đến của cải, đến những yêu thương của mình, khi niềm tin bị thử thách bằng thương tích, chúng ta mới biết rõ niềm tin của chúng ta thế nào.
Nếu vị linh mục trong câu chuyện cứ để cho Satan đánh thì sao? Có thể là Chúa sẽ giơ tay đỡ như đã bảo vệ Isaac? Vì không biết được hậu quả nên mới lo âu. Nhưng nếu đã biết trước thì còn gì là niềm tin?
Linh mục giảng với tất cả tâm hồn của chàng. Khi chàng đang muốn nói với con chiên của chàng một điều gì đó nữa thì chàng nghẹn lời. Mặt chàng nóng bừng. Giáo dân thấy chàng ngập ngừng, giọng nói không còn bình tĩnh. Riêng chàng, tim đập dồn dập. Hai tay ghì chặt lên cuốn Thánh Kinh. Một sự tức giận bất ngờ ùa đến. Chàng không thể ngờ được nỗi đau, những thương tích, niềm xám hối của trận chiến hôm qua lại bừng bừng cháy lên khi chàng nhận ra gã đàn ông lạ mặt. Tên Satan mà chàng đã chiến đấu suốt đem qua đang ngồi ngay ở đầu ghế, khoảng giữa nhà thờ!
Chàng không biết xử trí làm sao. Nói không nên lời. Tất cả là ứ nghẹn. Thách đố. Siêu bạo. Thương đau. Nhà thờ im lặng chờ đợi, sự im lặng nghẹn thở, ngạc nhiên. Chàng quá xúc động, dòng lệ của nghẹn ngào vì thiếu niềm tin tối hôm qua, dòng lệ của xám hối. Chàng từ từ gấp lại cuốn Thánh Kinh. Ngước mắt nhìn thập giá. Chàng không nói một lời nào với giáo dân. Im lặng. Ðợi chờ. Chàng không thể ngờ có thể xẩy ra như thế. Không bao giờ ngờ được hắn ngồi ngay trong lòng nhà thờ, nghe chàng giảng về đức tin, về cuộc thử thách giữa quyền lực bóng tối là chính hắn và Ðức Kitô. Vừa căm phẫn vừa thấy tủi nhục, chàng muốn chết, chết ngay để minh chứng cho hắn biết chàng không phải là kẻ thua trận. Tất cả lời chàng giảng trở nên thừa thãi và lừa dối chính mình nếu chàng để cho quyền lực của hắn ngự trị trong ngôi giáo đường này. Nhớ lại lời hắn nói: "Ta bẻ gẫy lời kinh nguyện của ngươi mà ngươi không hay." "Ta đến để gieo thất vọng đi trên hi vọng." Càng nghĩ, linh mục càng thấy đau khổ, đấy là trận chiến quyết liệt giữa chàng và kẻ thù của cả đàn chiên. Nhưng chàng biết không dễ gì đạt được vinh quang. Có thể chàng sẽ mất đàn chiên. Có thể chàng là kẻ chiến bại. Chàng lại nghĩ thầm đến Chúa Kitô, tha thiết xin một lời cầu bằng tất cả linh hồn. Hai tay buông xuôi như một con chiên nhỏ trước giờ hi tế. Chàng bước ra giữa gian cung thánh, trước bàn thờ. Ngước lên thập giá. Cả nhà thờ im không một tiếng động nhỏ. Không ai hiểu gì. Họ chỉ có một linh cảm như có điều gì khác thường xẩy ra. Tại sao cha đang giảng lại thôi? Tại sao cha lại không hát kinh Tin Kính như mọi Chủ Nhật khác? Họ phải làm gì bây giờ? Ðứng dậy? Ngồi? Tất cả lúng túng, chờ đợi. Quỳ trước bàn thờ, linh mục trông lên thập giá đã sứt mẻ vì bị Satan ném bình bông đêm qua. Chàng lấy hết tâm trí dâng lời nguyện:
- Con biết tin vào Cha là đặt trót cuộc sống vào Cha, nhưng không dễ Cha ạ, yếu đuối của con cao hơn tầm tay con với. Buông tay ra để cho mình rơi xuống là một thử thách cam go, rụng rời. Lên đường mà không biết bao giờ tới. Vào sa mạc để rồi thấy tất cả đều vô phương hướng, mênh mang. Con sợ hãi những mịt mùng. Xin trợ giúp con.
Sau lời nguyện, cả nhà thờ lắng nghe, nhưng chàng không nói gì thêm. Lại là im lặng. Một thứ im lặng linh thiêng ngột ngạt, khó thở trùm phủ ngập nhà thờ. Bầu không khí tự dưng trở nên trầm mặc, uy quyền, lắng đợi. Chàng đăm đăm nhìn lên tượng chịu nạn nhưng nói vọng về phía sau:
- Hỡi Satan, bây giờ không còn là đêm tối nữa. Bây giờ là nắng ban mai chiếu rọi. Tất cả đàn chiên của ta đang ở đây. Lấy đi, nếu ngươi chứng tỏ được quyền uy của ngươi.
Gã lạ mặt rút ở gầm ghế ra một thanh gỗ đen nhánh. Hắn bình tĩnh ra lối giữa nhà thờ, đi lên cung thánh. Mọi người ngẩn ngơ không biết đang xẩy ra điều gì. Tất cả chăm chú nhìn theo gã đàn ông lạ mặt. Hắn đứng trước linh mục, chìa cây gậy, mũi nhọn đi sát vào mặt, bây giờ chàng mới nhìn rõ dưới ánh sáng. Những mũi đinh tua tủa, mới mài còn sáng choang. Hắn đã đóng hàng chục cây đinh nhọn, lớn gần bằng chiếc đũa dọc theo đầu cây gậy. Linh mục rợn người khi những mũi sắt nhọn dí sát vào mặt. Hắn từ từ giơ gậy lên cao cố ý rất chậm rãi để cho linh mục nhìn thấy cái chết đang đến. Chàng nhắm mắt cầu nguyện. Giờ lên đường đã điểm. Hồi trống dục trận đang hối hả. Chàng nguyện mong thiên thần của Chúa sẽ cứu chàng như đã cứu Isaac thủa xưa. Gã lạ mặt, nhanh như chớp, mạnh như vũ vão, quật cây gậy ngang mặt chàng. Mọi người trong nhà thờ rú lên kinh hoàng. Máu vọt cao. Gần một nửa đầu nát bấy, văng thịt lên tường vôi. Linh mục ngã gục trước bàn thờ. Máu chan hòa. Nhưng điều lạ lùng là tên quỷ thấy máu thì hoảng sợ, thay vì cười vang chiến thắng, hắn kinh hãi rụng rời. Hắn cuống cuồng đến nỗi phải nhẩy mấy lần mới leo lên được cửa sổ chạy biến ra ngoài.
Giáo dân không bao giờ biết được câu chuyện đã xẩy ra vào đêm trước khi cha xứ của họ dâng thánh lễ ngày kính thánh Phêrô. Trải qua bao nhiêu đời, con cháu họ vẫn tin rằng cha xứ bị giết bởi một kẻ lạ mặt. Cũng không ai để ý rằng từ ngày đó, có những cơn mưa ân sủng tươi mát từ trời cao về che chở ngôi làng. Tiếng chuông sốt mến hơn, buông lời sứ thần tỏa vào không gian. Mọi người đều thương mến nhau, hạnh phúc, nhưng không ai biết vì sao. Từ ngày đó gã quỷ không bao giờ dám trở lại ngôi nhà thờ ấy nữa.
(Lối kết trên đây cũng có thể viết lại như sau)
LỐI KẾT THỨ HAI
Linh mục rùng mình trước những mũi đinh nhọn. Những cám dỗ vô hình và rất vũ bão réo gọi chàng giơ tay đỡ, hối dục chàng đứng dậy quăng chiếc ghế vào mặt hắn. Nhưng linh mục lấy hết sức quỳ im. Thấy vậy gã lạ mặt hét lên vì căm phẫn. Hắn không nghĩ ngợi gì nữa, vung cây gậy đập thẳng xuống đầu linh mục. Mọi người kinh hãi rú thét lên. Những giọt mồ hôi tròn như giọt máu lăn dài trên mặt. Cơn thử thách cùng tận. Nhưng lạ lùng, khi cây gậy đập tới đầu linh mục thì gã lạ mặt nhẩy bổng lên. Tay hắn buốt như có giòi rúc trong xương. Hắn không thể nào đập xuống đầu linh mục được. Hắn lồng lộn đập liên hồi, nhưng càng đập hắn càng tru tréo đau đớn. Linh mục nhìn thẳng vào mắt hắn:- Hỡi Satan, cút khỏi nơi đây!
Gã tức ứ máu cổ, ho sục sặc. Mắt long lên màu đỏ dã man. Không sợ sệt, Satan bình tĩnh, xách theo cây gậy đi xuống cuối nhà thờ.
Mọi người ngỡ ngàng, một nhóm thanh niên chạy theo bắt hắn lại. Nhưng vừa ra tới cửa nhà thờ thì chẳng còn ai trông thấy hắn đâu nữa. Người người nhốn nháo hỏi nhau, bỡ ngỡ cùng tột. Giao chiến đêm hôm trước đã làm cây thánh giá bị gẫy. Vậy mà sáng hôm đó, lúc đầu lễ, không ai để ý rằng khi cha xứ của họ từ phía cuối nhà thờ tiến lên bàn thánh thì hai cậu giúp lễ đi tay không chứ không cầm cây thánh giá mà cậu bé vẫn vác đi trước như mọi thánh lễ khác.
(Lối kết thứ nhất hoặc lối kết thứ hai
thì cũng có thể vẫn còn một thắc mắc)
* Ở lối kết thứ nhất, vì sao Chúa không cứu vị linh mục như thiên thần đã chặn tay Abraham khi sát tế con? Có phải linh mục đã thất bại vì bị giết chết? Trong lối kết thứ hai, tác giả không nói gì về việc trở lại, nếu quỷ trở lại hàng ngày trong đời sống của linh mục thì sao?
Trích Tập Truyện Ngắn "ÐƯỜNG VỀ THƯỠNG TRÍ" của tác giả Nguyễn Tầm Thường.